Hiệp định thương mại tự do (FTA) Việt Nam - EU và Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP)
Lược ghi bài nói của đồng chí Ngô Chung Khanh - Phó Vụ trưởng Vụ Chính sách Thương mại Đa biên, Bộ Công thương
Thưa tất cả các đồng chí, thời gian qua, qua các phương tiện thông tin đại chúng báo, đài các đồng chí cũng đã nắm được những thông tin chung về tình hình đàm phán của 2 Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh Châu Âu (EU) và Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP).
Đối với Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam và liên minh Châu Âu (EU) thì chúng ta cơ bản kết thúc đàm phán và Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) chúng ta đang trong giai đoạn kết thúc đàm phán.
Hôm nay, tôi xin phép được báo cáo đến tất cả các đồng chí kết quả đàm phán của 2 hiệp định này.
I. HIỆP ĐỊNH ĐỐI TÁC XUYÊN THÁI BÌNH DƯƠNG
Thưa các đồng chí thời gian qua thực hiện chủ trương đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ ngoại giao, kinh tế của Đảng và Nhà nước ta thì chúng ta đã và đang hội nhập quốc tế rất sâu rộng kể cả song phương, đa phương và khu vực.
- Ở cấp độ song phương thì chúng ta cũng đã ký kết nhiều Hiệp định thương mại và Hiệp định thương mại tự do. Ví dụ như chúng ta ký kết Hiệp định Thương mại với Hoa kỳ vào năm 2000, chúng ta ký kết Hiệp định Thương mại tự do với Nhật Bản, Chilê đó là những Hiệp định ở cấp độ song phương
- Ở cấp độ khu vực thì chúng ta tham gia khu vực kinh tế tự do ASEAN, chúng ta tham gia các Hiệp định Thương mại tự do giữa khu vực ASEAN ký kết với các đối tác. Ví dụ như ký kết với Nhật Bản - ASEAN Nhật Bản, ASEAN – Úc – New zealand, ASEAN - Hàn Quốc, ASEAN - Ấn Độ
- Cấp độ đa phương thì chúng ta đã có 1 mốc quan trọng trong quá trình hội nhập ở quốc tế nói chung và hội nhập kinh tế quốc tế nói riêng đó là việc gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO vào năm 2007 đây là cột mốc hết sức quan trọng đánh dấu 1 mốc là chúng ta đã trưởng thành về quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của chúng ta.
Phần trình bày của tôi xin phép được chia làm 3 phần:
- Thứ nhất, tôi xin cung cấp 1 số thông tin cơ bản về quan hệ kinh tế thương mại giữa Việt Nam với EU và giữa Việt Nam với Hoa Kỳ. Tại sao cung cấp như vậy mặc dù chúng ta nói về Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương gọi tắc là TPP hay P4 nhưng tôi chỉ cung cấp cái quan hệ kinh tế thông tin về qua hệ kinh tế giữa Việt Nam và Hoa Kỳ bởi vì đối với Hiệp định TPP thì có thể nói là cái lợi ích gia tăng lớn nhất của chúng ta Hiệp định này là quan hệ kinh tế thương mại đầu tư với Hoa Kỳ, cho nên đây là đối tác lớn nhất và cũng có cái ảnh hưởng lớn nhất trong quá trình đàm phán của cả cái Hiệp định nói chung và quan hệ đàm phán song phương giữa Việt Nam và Hoa Kỳ nói riêng cho nên tôi cung cung cấp tập trung vào đối tác này.
+ Nội dung thứ 2, tôi cũng xin trình bày về quá trình đàm phán của 2 Hiệp định và kết quả đàm phán của 2 Hiệp định cho đến nay trong đó gồm: TTP và EU
+ Tiếp theo tôi cũng xin đưa ra 1 số kênh thông tin nhận định về thách thức và cơ hội đối với Việt Nam khi tham gia 2 Hiệp định này và cuối cùng là 1 số kiến nghị trong đó có 1 số các nội dung xin đề xuất liên quan đế gốc độ tuyên truyền.
1. Quan hệ kinh tế thương mại giữa Việt Nam với EU và giữa Việt Nam với Hoa Kỳ
Về quan hệ kinh tế thương mại giữa Việt Nam với khối EU và với Hoa Kỳ, xin chỉ tập trung nhấn mạnh cái mặt lớn nhất, nổi bật nhất trong cái quan hệ quan hệ kinh tế thương mại giữa chúng ta và 2 đối tác này và các hoạt động xuất nhập khẩu
- Tất cả các đồng chí có thể nhìn vào cái biểu đồ 2 biểu đồ này chúng ta thấy có 1 cái điểm chung đó là cái giá trị kim ngạch xuất khẩu của chúng ta sau 2 thị trường này tăng rất mạnh và rất nhanh.
Ví dụ:
Đối với khu vực EU chẳng hạn nếu năm 2005 thì cái kim ngạch xuất khẩu của chúng ta chỉ khoảng độ 5 tỷ USD đến năm 2014 kim ngạch đã lên tới khoảng 25 tỷ USD tức là tăng gấp 5 lần.
Và tiếp theo là cái cán cân thương mại nghiêng về phía chúng ta. Tức là chúng ta có thặng dư thương mại rất lớn trong quan hệ thương mại với EU. Cán cân thương mại thặng dư xuất khẩu của chúng ta năm 2005 là khoảng 2,5 tỷ USD thì đến năm 2014 con số này là khoảng gần 20 tỷ USD. Đó là thặng dư thương mại đối với quan hệ với EU và cái tốc độ tăng trưởng các đồng chí có thể thấy đường xu hướng tăng rất mạnh, rất cao. Đó là cái đặc điểm nổi bật trong các quan hệ thương mại giữa Việt Nam – EU
Với Hoa Kỳ thì các đồng chí cũng thấy 1 cái xu hướng tương tự có thể nói kể từ khi chúng ta ký kết cái Hiệp định thương mại song phương với Hoa Kỳ vào năm 2000 thì cái kim ngạch xuất khẩu có thể nói là tăng trưởng vượt bật và có thể nói nhiều người không nghỉ rằng có 1 kết quả là như vậy. Bởi khi thời điểm trước khi ta ký Hiệp định thương mại song phương với Hoa Kỳ thì kim ngạch xuất khẩu của chúng ta sang Hoa Kỳ chỉ đạt khoảng độ 400 triệu USD. Nhưng nếu mà chúng ta nhìn sang con số mà chúng ta xuất khẩu vào năm 2014 con số này lên tới gần 30 tỷ USD và 1 điểm sáng trong cái quan hệ thương mại xuất khẩu với Hoa Kỳ cũng tương tự như EU đó là cái thặng dư về thương mại chúng ta cũng đạt được rất cao với Hoa Kỳ. Năm 2005 các đồng chí có thể thấy cái thặng dư của chúng ta gần 5 tỷ nhưng đến năm 2014 thặng dư của chúng ta gần 25 tỷ đây là con số rất lớn.
- Tôi xin cung cấp thêm 1 vai trò rất quan trọng của 2 đối tác này trong cái quan hệ trong cái thương mại, trong cái hoạt động xuất nhập khẩu của chúng ta với các nước trên thế giới. Có thể nói thời gian qua thì tất cả các đồng chí cũng đã biết qua các phương tiện thông tin đại chúng là vấn đề “thâm hụt thương mại”, thâm hụt thương mại của chúng ta báo chí cho là thâm hụt thương mại rất lớn từ khu vực Đông Á khu vực địa lí mà chúng ta đang sống mà quan hệ thương mại của chúng ta hiện nay đang tập trung rất lớn vào một số đối tác lớn ở khu vực Đông Á như Trung Quốc, Hàn Quốc, ASEAN, Đài Loan và những đối tác mà chúng ta có quan hệ thương mại lớn. Có 1 đặc điểm nổi bật là trong quan hệ thương mại với các đối tác này thì thế yếu là nghiêng về phía chúng ta, tức là chúng ta thâm hụt thương mại rất lớn với các đối tác này thì xin cung cấp 1 số thông tin để các đồng chí nắm là năm 2014 đây là con số chính thức tức là chúng ta thâm hụt thương mại với Trung Quốc 29 tỷ USD, Hàn Quốc 14,5 tỷ USD, với kv ASEAN là gần 4 tỷ USD với Đài Loan là gần 9 tỷ USD. Tổng cộng chỉ riêng 1 số đối tác này thôi thì chúng ta đã thâm hụt với họ tới 56,2 tỷ USD đây là con số thâm hụt khổng lồ thế thì chúng ta cứ thử hình dung là nếu mà chúng ta không có 1 sự cân bằng trở lại thì nó sẽ gây 1 cái áp lực cực kỳ lớn lên cán cân thanh toán của chúng ta với con số gần 60 tỷ USD thâm hụt như vậy thì để bù đắp lấy 60 tỷ USD để bù đắp lại cán cân thương mại để thanh toán đó là vấn đề không phải dễ giải quyết. Chính vì thế tôi xin cung cấp cái vai trò của 2 đối tác EU và Hoa Kỳ.
Như tôi vừa trình bày thì năm 2014 thì chúng ta thặng dư thương mại với khu vực với EU là 19 tỷ USD, với Hoa Kỳ khoảng 22,3 tỷ USD tổng cộng chỉ có riêng 2 đối tác này thôi thì đã giúp chúng ta thặng dư khoảng 41,3 tỷ USD con số này tuy nó chưa cân bằng với con số thâm hụt thương mại chúng ta có với 1 số đối tác ở khu vực Đông Á nhưng nó đóng 1 vai trò hết sức quan trọng giúp chúng ta đảm bảo được cái độ cân bằng của cán cân thanh toán không gây áp lực quá lớn lên cái việc đều hành chính sách tỷ giá cũng như tiền tệ.
Chúng ta đặt bối cảnh hiện nay chúng ta có quan hệ thương mại bình thường với 2 đối tác này tức là chúng ta chưa có quan hệ thương mại tự do, tức là hàng xuất khẩu của chúng ta sang 2 đối tác này vẫn phải chịu thuế, mặc dù chúng ta là thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới nhưng mà vì là thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới có tới 162 thành viên cho nên cứ 162 thành viên thì nó có được hưởng cái thuế nhập khẩu mà 2 đối tác EU và Hoa Kỳ đang áp dụng cho nên nếu bây giờ chúng ta thử hình dung toàn bộ hàng xuất khẩu của chúng ta sang 2 thị trường này không phải chịu thuế gì cả.
Chẳng hạn như thuế quan trung bình của Hoa Kỳ với 1 số mặt hàng quan trọng của chúng ta như dệt may chẳng hạn trung bình là 18% thì nếu bây giờ chúng ta xuất khẩu sang Hoa Kỳ mà chỉ có 0% thôi thì nó tạo nên 1 cái sức đẩy rất lớn cho kim ngạch xuất khẩu thế thì nếu mà chúng ta có quan hệ thương mại tự do với 2 đối tác EU và Hòa Kỳ thì rất nhiều khả năng chúng ta sẽ cân bằng được cái thâm hụt thương mại khu vực Đông Á và thậm chí có thể thặng dư hơn bởi vì EU và Hòa Kỳ vẫn là 2 thị trường lớn nhất trên thế giới hiện nay. Một số thông tin như vậy để chúng ta thấy là tại sao chúng ta lại chọn EU và Hoa Kỳ để thúc đẩy đàm phán và tại sao 2 đối tác này lại có vai trò quan trọng như vậy đối với các hoạt động kinh tế thương mại của chúng ta.
Chúng ta có thể hình dung nhìn trên bảng đồ chúng ta thấy nếu chúng ta ký kết với EU với Hoa Kỳ và chúng ta vừa ký kết song với Liên minh thuế quan Nga, Belarus, Kazaktan, rồi chúng ta đang đàm phán với khu vực khối 1 số nước Châu Âu gồm có Thụy Sỹ, Na Uy và Ai Len những đối tác này cũng góp phần quan trọng vào việc tăng cường thặng dư thương mại đối với chúng ta và nó đảm bảo được sự cân bằng trong quá trình hội nhập quốc tế nói chung và hội nhập kinh tế quốc tế nói riêng của Việt Nam.
2. Quá trình đàm phán
Phần thứ 2 tôi xin phép trình bày quá trình đàm phán và kết quả đàm phán của Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương gọi tắt là TPP hay P4.
2.1.Tại sao lại có Hiệp định TPP?
Hiệp định TPP không phải có từ thời gần đây mà nó có khởi nguồn từ năm 2005 khi 4 nước trong diễn đàn kinh tế Châu Á Thái Bình Dương gọi tắt là APEC: Chi Lê, Brunay, New Zealand, Singarpore có 1 ý tưởng là ký kết 1 hiệp định đối tác tên gọi đây đủ là Hiệp định Đối tác kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương .
Mục tiêu của 4 nước này là muốn tạo ra 1 khu vực thương mại tự do cho toàn khối APEC là gồm 21 thành viên tại Châu Á Thái Bình Dương nhưng tại sao cái thời điểm đó là các nước khác lại không quan tâm vì chúng ta có thể nhìn thấy về quy mô địa lý cũng như về quy mô kinh tế của 4 nước này nó không thực sự là lớn để nó tạo ra sự hấp dẫn nhất định cho các đối tác lớn tham gia vậy thì quy mô thị trường của 4 nước này nó còn nhỏ cho nên là khi 4 nước này có quyết định thành lập 1 khu vực thương mại tự do thì các nước lớn họ cũng chưa tham gia, cũng chưa quan tâm.
Đến tháng 9/2008 thì chúng ta cũng có thể biết được là năm 2008 là năm cuối nhiệm kỳ của Tổng thống Bush thời điểm đó Hoa Kỳ có 1 quyết định quan trọng đó là chuyển trục chiến lược. Tức là trước đây họ quan tâm đến khu vực Trung Đông, Châu Âu thì họ chuyển trục sang trọng tâm là khu vực Châu Á Thái Bình Dương và khi họ chuyển trục như vậy thì họ quan tâm đến việc là tạo dựng ra 1 cái khuôn khổ, quy tắc để cho cái hoạt động trao đổi thương mại trong khu vực mà Hoa Kỳ quyết định tham gia vào cái Hiệp định P4 mà của 4 nước Chi Lê, Brunay, New Zealand, Singarpore đã thành lập thế nhưng vì Hoa Kỳ là nước rất lớn cho nên khi nọ nói họ tham gia nhưng không phải là họ tham gia đàm phán trong cái khuôn khổ quy định tóp 4 đó mà họ nói là họ tham gia và thiết lập thêm 1 cái Hiệp định mới hoàn toàn và Hiệp định đấy nó là cơ sở cho cái hoạt động trao đổi thương mại của khu vực Châu Á Thái Bình Dương trong tương lai. Khi Hoa Kỳ tham gia thì câu chuyện trở nên khác bởi vì Hoa Kỳ vẫn là nước có vai trò hết sức quan trọng trong nhiều hoạt động của thế giới và là 1 thị trường lớn nhất thế giới. Khi họ tham gia thì thu hút sự chú ý của rất nhiều đối tác và cũng từ thời điểm năm 2008 đó thì tại Hội nghị APEC tổ chức tại Peru thì 2 nước là Úc và Peru cũng cùng tham gia và đưa tổng số thành viên lúc đó là lên 7 thành viên.
Cuối năm 2008 có 1 chuyện là Singarpore, Hoa Kỳ bắn tin qua Singarpore muốn mời Việt Nam tham gia Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương . Họ không nói trực tiếp mà họ mời qua Singarpore và Singarpore qua nhiều kênh, kênh kỹ thuật cũng có, kênh chính trị cũng có nói chuyện với các lãnh đạo chúng ta về cái khả năng là Việt Nam tham gia Hiệp định TPP trên cơ sở đánh giá tình hình cũng như một số nhận định của cơ quan liên quan thì chúng ta đã cũng có xin phép báo cáo lãnh đạo Đảng và Nhà nước ta về cái khả năng tham gia Hiệp định TPP thì cách tiếp cận của chúng ta rất thận trọng cho nên chúng ta cũng đặt vấn đề với Hoa Kỳ và các nước TPP là gì là chúng ta chưa tham gia ngay mà chúng ta tham gia với tư cách là quan sát viên thế nhưng Hoa Kỳ và các nước TPP cho chúng ta mệnh lệnh có thể nói là …16-50… về sau này nhiều nước đòi cái đối xử tương tự nhưng Hoa Kỳ và các nước TPP từ chối kể cả Nhật Bản và gần đây là 1 số nước như Trung Quốc cũng đòi cái quy chế đó nhưng Hoa Kỳ và các nước TPP từ chối. Đó là quy chế quan sát viên đặc biệt, nó khác với các quan sát viên ở chỗ là chúng ta được quyền tham gia đàm phán như tất cả các thành viên TPP khác chúng ta được quyền tiếp cận tất cả các tài liệu đàm phán không có 1 giới hạn nào cả, chỉ khác duy nhất là chúng ta không có quyền phát ngôn chính thức là đồng ý hay không đồng ý tức là bỏ phiếu. Hoa Kỳ cũng chỉ giới hạn là vì là Việt Nam nên tham gia 3 phiên thôi và sau 3 phiên thì Việt Nam cũng có được thông tin để đánh giá là Hiệp định TPP này có lợi hay là không có lợi chỗ nào để từ đó đưa ra quyết định chính thức. Sau 3 phiên đến năm 2010 sau khi chúng ta cũng đã cập nhật được thông tin, đánh giá được các cái mặt thuận lợi, mặt tích cực, tiêu cực của Hiệp định này chúng ta báo cáo lãnh đạo Đảng và Nhà nước và chúng ta đề xuất là xin tham gia chính thức và sau khi lãnh đạo Đảng và Nhà nước quyết định đồng ý để Việt Nam tham gia với tư cách là thành viên chính thức thì tại hội nghị cấp cao APEC tổ chức tại Yokohama - Nhật Bản tháng 11/2010 thì Chủ tịch Nguyễn Minh Triết tại diễn đàn doanh nghiệp cũng đã thông báo là Việt Nam chính thức tham gia Hiệp định TPP và cùng thời điểm này Malaysia cũng được chính thức kết nạp trở thành là thành viên chính thức.
Như vậy là sau khi Việt Nam và Malaysia tham gia thì tổng cộng có tất cả 9 thành viên TPP và bắt đầu các nước tiến hành đàm phán. Quá trình đàm phán tiếp tục kéo dài, trong quá trình đàm phán có rất nhiều nước đối tác cũng có thể hiện sự quan tâm có Nhật Bản, Canada, Mexico, Hàn Quốc, Philippin, Thái Lan, Trung Quốc thậm chí có 1 số nước ngoài khu vực các nước thành viên như Nicaragua, Costa Rica họ cũng bày tỏ ý định tham gia nhưng cuối cùng có 3 nước được kết nạp đó là Canada, Mexico vào tháng 12/2012 và Nhật Bản vào tháng 7/2013 và sau đó các nước chốt lại con số chỉ có 12 thành viên TPP mà thôi để tập trung đàm phán kết thúc đã. Còn sau việc mở rộng xem xét kết nạp mở rộng thì đó là việc trong tương lai sau khi Hiệp định TPP được kết thúc. Đó là quá trình đàm phán Hiệp định TPP.
2.2. Kỳ vọng của các đối tác
Tại sao Hiệp định TPP được thành lập và kỳ vọng của họ là gì? Kỳ vọng của các đối tác là gì? Tại sao lại có Hiệp định TPP. Có 2 điểm chúng ta cần lưu ý
- Thứ nhất là kỳ vọng chung:
+ Không chỉ ở Hoa Kỳ và một số đối tác trong TPP có 1 kỳ vọng cũng như 4 nước Chi Lê, Brunay, New Zealand, Singarpore hồi 2005 thành lập Hiệp định P4 họ cũng muốn tạo ra cái Hiệp định thương mại tự do cho khu vực Châu Á TBD để thúc đẩy hoạt động thương mại và đặc biệt là Hoa Kỳ họ cũng muốn trong quá trình thúc đẩy xử lý các vấn đề thương mại giữa các đối tác trong khu vực Châu Á TBD thì Hoa Kỳ cũng muốn đưa một số nội dung, những vấn đề đang nổi lên hiện nay người ta gọi là những vấn đề của thế kỷ XXI để có khuôn khổ xử lý.
Ví dụ như các nội dung về môi trường, bởi vì bây giờ cái xu hướng là không chỉ phát triển kinh tế mà còn phát triển kinh tế bền vững tức là phát triển kinh tế phải đi đôi với bảo hộ và môi trường chứ không phải chỉ quan tâm tới phát triển kinh tế. Trường hợp Trung Quốc thời gian gần đây chúng ta thấy đó là ví dụ hết sức rỏ ràng cho việc phát triển kinh tế nóng nhưng không quan tâm đến sự bền vững. Thế thì Hoa Kỳ cũng muốn đưa vấn đề về môi trường vào hay là vấn đề về doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp nhà nước ở đây nó có liên quan đến 1 số nước có vai trò là nước lớn họ cho rằng doanh nghiệp Nhà nước hiện nay có khả năng gây móp méo hoạt động thương mại chỉ có sự can thiệp, chỉ có sự hổ trợ của chính phủ cho nên họ cũng muốn có 1 quy tắc để xử lý các hành vi móp méo đó hay là cái hoạt động về thương mại điện tử có nhiều trường hợp nhiều nước cũng có yếu tố an ninh mạng chẳng hạn họ cũng muốn có cách xử lý hay là gần đây chúng ta thấy nổi lên vấn đề đó là thao túng tiền tệ là việc Trung Quốc phá giá đồng Nhân dân tệ có thể khả năng dẫn đến chuyện chiến tranh tiền tệ. Đó là những vấn đề mà họ cũng muốn xử lý trong cái Hiệp định FTA kỳ vọng họ muốn đặt ra một cái khuôn khổ cho 1 vấn đề nào đó mà những vấn đề này chưa được xử lý bất kỳ nơi đâu trong khuôn khổ đa phương hay khuôn khổ song phương
+ Mục tiêu là tạo thuận lợi tối đa cho thương mại và đầu tư thể hiện cái mức độ yêu cầu và cam kết dự kiến. Lát nữa tôi sẽ trình bày chi tiết hơn về cái yêu cầu của Hiệp định TPP trong một số lĩnh vực để chúng ta thấy là cái yêu cầu đặt ra đối với cái Hiệp định này là cao nếu không nói là rất cao. Mục tiêu là tạo thuận lợi tối đa cho hoạt động thương mại đầu tư
+ Họ muốn từ cái TPP này nó thành cái hạt nhân để lan rộng ra để có thể mở rộng ra cho toàn bộ khu vực Châu Á TBD và nếu có thể thì đi xa hơn.
Đó là kỳ vọng chung.
- Còn kỳ vọng riêng:
+ Ở đây đặt vấn đề ở đây là với Hoa Kỳ mức độ nào đó mà chúng ta ,,,23 cái vấn đề thứ nhất TPP là con đường ngắn nhất để có 1 FTA cùng lúc với nhiều nước. Chúng ta thấy về chính trị Hoa Kỳ rất hết sức phức tạp chúng ta thử đặt 1 tình huống là về thế quan chúng ta rất khó chúng ta có 1 quan hệ có… 23-15 quan hệ hiệp định song phương hiện nay lên 1 FDI song phương nó rất khó vì chúng ta còn nhiều vấn đề khác biệt với Hoa Kỳ mà cần phải giải quyết mà do Quốc hội Hoa Kỳ có nhiều phe phái đan xen lẫn nhau cho nên để đưa ra 1 quyết định là đồng ý cho Hoa Kỳ thiết lập 1 quan hệ thương mại tự do song phương với Việt Nam là khó khăn. Tuy nhiên thông qua TPP thì nó lại là 1 cái khác là 1 cách đường lách để Hoa Kỳ có 1 quan hệ thương mại tự do với Việt Nam và qua TPP không chỉ là Hoa Kỳ có quan hệ thương mại với Việt Nam mà Hoa Kỳ cũng sẽ có quan hệ thương mại với nhiều đối tác…
Ví dụ như New zealand, Brunei hay một số nước trong tương lai mà có thể là Trung Quốc, có thể là Thái Lan, Philippin ít nhất là các nước này vào TPP là Hoa Kỳ có quan hệ thương mại. Qua cái Hiệp định TPP đó là con đường ngắn nhất để Hoa Kỳ có được quan hệ FTA với nhiều đối tác
+ Cái kỳ vọng riêng thứ 2 là hiện nay quá trình đàm phán tự do thương mại trong khuôn khổ tổ chức thương mại thế giới vòng Doha đang bị trì trệ, đang bị bế tắt. Bởi vì do nhiều lợi ích đan xen khác biệt trong tổ chức thương mại thế giới cho nên dẫn đến cái việc mà vòng đàm phán Doha bị bế tắt. Khi vòng đàm phán Doha bế tắt thì những nước có cái mục tiêu thúc đẩy xuất khẩu đặc biệt như chúng ta, cái động lược tăng trưởng của chúng ta là xuất khẩu, cho nên muốn thúc đẩy xuất khẩu thì các hàng rào về thuế quan, hàng rào phi thuế quan phải được gỡ bỏ. Muốn hàng rào về thuế quan và phi thuế quan được gỡ bỏ thì phải thông qua đàm phán trong khuôn khổ nào đó WTO có nhiều bế tắt thế thì bây giờ làm thế nào để thúc đẩy cái hoạt động này thì chỉ có qua con đường FTA và FTA song phương thì định hướng như tôi đã trình bày ở trên bây giờ thông qua con đường FTA đa phương nó sẽ tạo ra động lực là khi FTA – TPP thành công thì tự dưng nó có 1 cái áp lực quay trở lại đối với tổ chức thương mại thế giới, khiến cho tổ chức thương mại thế giới phải nhìn nhận lại, phải có các linh hoạt, có các động thái tích cực hơn để thúc đẩy vong đàm phán Doha thì qua đó tác động như vậy thì vòng đàm phán Doha tăng trưởng trở lại. Đó là cái kỳ vọng thứ 2
+ Kỳ vọng thứ 3 là kỳ vọng riêng của từng nước, nước thì muốn thúc đẩy xuất khẩu, nước thì muốn thu hút đầu tư, nước thì muốn tham gia sâu hơn về cái dây chuyền cung ứng của các tập đoàn lớn trên thế giới. Thì đó là cái kỳ vọng đối với hiệp định TPP.
2.3. Tình hình đàm phán
Tiếp theo thì tôi xin cung cấp tình hình đàm phán đối với Hiệp định TPP cho đến nay. Báo cáo các đông chí kể từ khi Hiệp định TPP chính thức được khởi động vào năm 2010 thì các nước TPP đã có hơn 30 phiên làm việc ở cấp kỹ thuật, hơn 10 cuộc đàm phán ở cấp Bộ trưởng. Đây có thể nói là 1 trong những Hiệp định mà …26-45 ….1 …Hiệp định FTA khu vực có các Bộ trưởng trực tiếp tham gia đàm phán và quan trọng hơn là không chỉ đàm phán ở cấp Bộ trưởng mà các nhà lãnh đạo cũng trực tiếp tham gia vào quá trình đàm phán và cho đến nay các nhà lãnh đạo TPP đã gặp nhau chính thức 4 lần và khá nhiều lần không chính thức ở bên lề Hội nghị ASEAN để giải quyết các vấn đề tồn đọng trong quá trình đàm phán.
Hiệp định TPP có 1 cái là đã nhiều lần đề ra mục tiêu kết thúc đàm phán. Ban đầu họ dặt ra kết thúc vào năm 2011 nhưng sau đó tình hình phức tạp quá nhiều vấn đề nội dung phức tạp quá cuối cùng không kết thức được năm 2011. Sau đó họ đặt ra mục tiêu là năm 2013.
Năm 2013 và cuối cùng lại vướng 1 số nội dung liên quan đến chính trị, tình hình chính trị của một số đối tác Ví dụ như của Nhật Bản, Hoa Kỳ và họ đặt mục tiêu là năm nay, vừa rồi đặt mục tiêu vào tháng 7 năm 2015 tuy nhiên cũng không đạt được sự mong đợi. (chút nữa tôi xin trình bày luôn).
Sang năm 2015 thì tình hình thuận lợi hơn, qua phương tiện thông tin đại chúng chúng ta nghe thấy cách đây khoảng độ 2 tháng tức là khoảng độ cuối tháng 6 và đầu tháng 7 tình hình thảo luận về việc trao thẩm quyền đàm phán nhanh cho tổng thống Obama rất nóng bỏng tại quốc hội Hoa Kỳ. Quyền đàm phán nhanh là quyền mà theo đó tổng thống và chính quyền Hoa Kỳ được quyền đi đàm phán với các đối tác và sau khi đàm phán song thì mang cái Hiệp định đó về trình trước Quốc hội thì Quốc hội chỉ có 2 sự lựa chọn 1 là bỏ phiếu thuận, 2 là bỏ phiếu trống không được quyền sửa đổi gì cả. Nhưng nếu Tổng thống Obama mà lại không có thẩm quyền đàm phán nhanh đó thì khi kết thúc đàm phán xong thì khi mang về cho quốc hội thì quốc hội hoàn toàn có quyền đề nghị chính quyền Hoa Kỳ đàm phán lại nội dung a, b, c chính vì cái việc này khi mà chính quyền Hoa Kỳ đàm phán với các đối tác nó sẽ dẫn đến là các nước khác rất là e ngại là vì kể cả đàm phán xong với Hoa Kỳ thì hoàn toàn có khả năng Quốc Hội Hoa Kỳ bắt …29 .hơn cho nên dẫn đến họ không tiếp tục đàm phán và đàm phán TPP bế tắt trong thời gian trước khoảng độ 2014 bế tắt vấn đề lớn nhất bởi vì Hoa Kỳ chưa có thẩm quyền đàm phán nhanh nhưng sang năm 2015 thì đầu tháng 7/2015 thì tổng thống Obama đã có được cái thẩm quyền đàm phán nhanh và chính vì vậy cái tình hình đàm phán đã được thúc đẩy đáng kể và cái hội nghị bộ trưởng tại Hawai đầu tháng 7/2015 thì các nước đã gần như kết thúc đàm phán ngoại trừ 3 vấn đề lớn nhất hiện nay đó là .
Thứ nhất là quy tắc xuất xứ đối với ôtô
Thứ 2 là mở cửa thị trường sữa
Thứ 3 là bảo hộ thuốc sinh học (sinh phẩm)
Tôi xin nói ngắn gọn thêm 1 chút để các đồng chí nắm thêm là tại sao 3 vấn đề này nó lại còn tồn động:
- Thứ nhất đối với vấn đề quy tắc xuất xứ đối với ôtô thì hiện nay là vấn đề vướng lớn nhất là giữa Nhật Bản và Mexico tại sao lại vướng? vì trong quá trình đàm phán Hiệp định TPP thì do các vấn đề lợi ích đan xen lẫn nhau:
Ví dụ: như Hoa Kỳ đề nghị Nhật Bản phải mở cửa thị trường nông sản như: gạo, sửa, đường, thịt bò trong khi những mặt hàng này là những mặt hàng cực kỳ nhạy cảm đối với Nhật Bản vì theo con số thống kê là nông dân Nhật Bản chiếm khoảng 10 triệu người và 10 triệu người này là hoàn toàn có 1 vai trò rất lớn đối với các Đảng chính trị của Nhật Bản đặc biệt là Thủ tướng ShinZo Abe cho nên khi bất kỳ 1 động thái nào mở cửa thị trường nông sản này thì cái ảnh hưởng, uy tín chính trị đối với thủ tướng Abe rất lớn cho nên Nhật Bản hết sức thận trọng đối với việc mở của thị trường nông sản. Tuy nhiên là vì sức ép của Hoa Kỳ bởi vì Hoa Kỳ cũng là 1 nước xuất khẩu nông sản cho nên Nhật Bản phải mở thị trường nông sản. Tuy nhiên ngược lại Nhật Bản cũng có lợi ích xuất khẩu sang Hoa Kỳ đó là ôtô. Và Nhật Bản đề nghị là cái ôtô xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ thì quy tắt xuất xứ lại bảo đảm thôi bởi vì chúng ta biết nhiều tập đoàn ôtô của Nhật Bản linh kiện họ không lấy từ Nhật Bản mà linh kiện lấy từ Thái Lan, Inđônêxia, thậm chí lấy từ Trung Quốc, nếu linh kiện sản xuất tại các nước này mà không được tính là quy tắt xuất xứ là của Nhật Bản thì ôtô Nhật Bản xuất khẩu sang Hoa Kỳ không được hưởng thuế ưu đãi. Chính vì thế Hoa Kỳ đánh đổi lại Nhật Bản đồng ý mở của thị trường nông sản thì đổi lại Hoa Kỳ chấp nhận quy tắc xuất sứ cho ôtô Nhật Bản ở mức độ là 45%. Tuy nhiên Mexico kể từ khi Hiệp định thương mại tự do Bắc Mỹ được ký kết là Mexico trở thành nước xuất khẩu ôtô lớn nhất vào thị trường Hoa Kỳ. Nếu mà ô tô Nhật Bản nhờ quy tắc xuất xứ linh hoạt như vậy thì chắc chắn ô tô Nhật Bản chất lượng thì tốt hơn, mẫu mã thì đẹp hơn, giá thành thì lại rẽ hơn thì ôtô Mexico gặp vấn đề lớn và chính vì thế Mexico phản đối cái thỏa thuận giữa Hoa Kỳ và Nhật Bản. Điều đó dẫn đến việc bế tắt và trong khi Nhật Bản cho rằng ôtô là mặt hàng sống còn đối với Nhật Bản, nó là cái để Thủ tướng Abe còn biện minh lại cho nhân dân mặc dù mở cử thị trường nông sản nhưng đổi lại là Nhật Bản cũng có lợi từ xuất khẩu ô tô. Vì Mexico phản đối cho nên là hội nghị cũng bị bế tắt. Đó là vấn đề thứ nhất.
- Vấn đề thứ 2 là mở cửa thị trường sữa mặc dù sữa. Hiện nay báo cáo các đồng chí nhiều nước như Nhật Bản, Canada là những nước rất nhạy cảm về mặt hàng sữa đặc biệt là Canada. Canada họ đóng cửa thị trường sữa rất lâu rồi tuy nhiên bây giờ sữa là mặt hàng chiến lược ở một số nước ví dụ như: Úc, New Zealand và 2 nước này là 2 nước cũng là quan trọng trong vòng đàm phán mà họ là lợi ích lớn nhất của họ nếu mà Canada không mở được thị trường sữa thì họ không có cái lợi ích để họ báo cáo lại với dân chính vì thế họ đề nghị Canada mở cửa thị trường sữa. Nhưng Canada lại là trong giai đoạn bầu cử tháng 10 bầu cử rồi, nếu mà mở của thị trường sữa thì lại ảnh hưởng đến uy tín của thủ tướng Harper cho nên họ cũng không đưa ra ngôn luận và dẫn đến vấn đề bế tắt thứ 2. là Vấn đề mở cửa thị trường sữa.
- Vì Canada không mở thị trường sữa cho nên New Zealand và Úc cũng đề nghị là tôi sẽ không ủng hộ cho 1 số các nội dung khác trong đó có nội dung là bảo hộ về thuốc sinh học và sinh phẩm báo cáo các đồng chí đối với Hoa Kỳ thì Tổng thống Obama có 1 cái thỏa thuận giữa các tập đoàn dược phẩm Hoa Kỳ là đối với thuốc sinh học (sinh phẩm) thì Hoa Kỳ sẽ đấu để làm sao bảo hộ được cái thuốc sinh học trong vòng 12 năm. Chúng ta hình dung thời gian bảo hộ càng cao thì cái giá thuốc càng cao. Bởi vì các nước có hiệu thuốc độc quyền cho nên đấy là cái vấn đề đấu tranh hết sức nhạy cảm thì Hoa Kỳ đề nghị thời gian bảo hộ chỉ có 3 năm thôi trong khi các nước muốn thời gian bảo hộ lâu hơn đó là vấn đề hiện nay cũng bị bế tắt.
Ngoài 3 vấn đề đó ra thì các nước đang tập trung để giải quyết đàm phán song phương như tôi nói vấn đề tồn tại giữa Nhật Bản và Mexico, Canada- Úc- Newzealand, giữa Hoa Kỳ – Úc - Newzealand về sở hữu trí tuệ. Vì hiện nay các nước TPP chưa chốt được thời gian để các Bộ trưởng gặp lại với nhau để bàn về chuyện này tuy nhiên có thể nói là các nước cũng đang đặt cho mục tiêu kết thúc trong năm nay. cũng có thể hình dung được là khả năng lớn nhất hiện nay là có khả năng là tháng 10 sau khi Canada đã bầu cử xong và dự kiến là đầu tháng 11 các nhà lãnh đạo gặp nhau tại Philippin nhân cái hội nghị cấp cao APEC thì đây là cơ hội duy nhất trong năm nay để kết thúc đàm phán. Các nước hy vọng như vậy.
Riêng về Việt Nam chúng ta về cơ bản cũng kết thúc đàm phán với tất cả các nước TPP ngoại trừ Hoa Kỳ. Hoa Kỳ Chúng ta còn phải làm rỏ thêm một số vấn đề lao động, công đoàn và vấn đề mở cửa thị trường . Đó là 2 nội dung lớn mà chúng ta đang thảo luận thêm với Hoa Kỳ.
Xin phép báo cáo thêm về các vấn đề đàm phán của Hiệp định TPP. Hiệp định TPP có thể nói là hiệp định rất là lớn, rất rộng có khoảng độ 30 chương đàm phán tuy nhiên không phải tất cả các chương đều có 1 ảnh hưởng lớn với chúng ta. Tôi xin trình bày các nội dung trình bày quan trọng nhất mà chúng ta quan tâm.
- Thứ nhất là về thương mại hàng hóa
- Thứ 2 là về dệt may
- Thứ 3 mở của thị trường dịch vụ - đầu tư
- Thứ 4 mua sắm của chính phủ còn gọi là mua sắm công
- Thứ 5 là vấn đề lao động, công đoàn
- Thứ 6 là doanh nghiệp Nhà nước
- Thứ 7 bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ
- Thứ 8 là về vấn đề môi trường thương mại điện tử.
Còn các nội dung khác thì nó cũng tương tự như cam kết của chúng ta với tổ chức thương mại thế giới và với 1 số Hiệp định thương mại tự do FTA mà chúng ta đã ký kết tôi xin phép tập trung vào 8 lĩnh vực lớn nhất mà trong Hiệp định TPP để các đồng chí nắm thêm thông tin.
* Thứ nhất, là về lĩnh vực thương mại hàng hóa: báo cáo các đồng chí vì nó là Hiệp định thương mại tự do cho nên nó phải cao hơn cái mức cam kết đối với tổ chức thương mại thế giới để nếu không thì không cần đàm phán gì cả cho nên nó phải là WTO+ thế nó cộng ở chỗ nào? Nó cộng ở chổ:
- Thứ nhất hướng đến tự do hóa toàn diện tức là 100% về thuế phải về 0%. Có thể sai lộ trình tức là không nước nào được quyền giữa lại 1 mặt hàng nào mà thuế còn chưa về mức 0% tất nhiên không phải là không là cắt giảm ngay từ khi hiệp định có hiệu lực, nó tùy thuộc vào độ nhạy cảm của từng mặt hàng mà lộ trình dài hay lộ trình ngắn nhưng mặt cơ bản là toàn bộ về thuế tất cả các mặt hàng…37-39 phải về 0%. Đó là cái yêu cầu đầu tiên về cắt giảm và trong đó trên 90% là xóa bỏ ngay khi hiệp định có hiệu lực còn lại gần 10% đó những mặt hàng nhạy cảm thì được phép có lộ trình và tùy thuộc vào đàm phán. Đây là cái yêu cầu có thể nói là cao hơn rất nhiều so với WTO và cao hơn nhiều so với các hiệp định FTA mà chúng ta đã ký kết. Đó là cái yêu cầu đầu tiên về thương mại hàng hóa.
- Cái thứ 2 là vấn đề xử lý vấn đề thuế xuất khẩu trong WTO thì chúng ta không cam kết xóa bỏ thuế xuất khẩu không phải làm gì cả chúng ta chỉ cam kết. Bới vì số thành viên WTO cũng quan ngại là chúng ta duy trì thuế xuất khẩu, bởi họ coi việc duy trì thuế xuất khẩu là mức trợ cấp cho ngành công nghiệp trong nước
Ví dụ như chúng duy trì thuế xuất khẩu đối với than chẳng hạn. Nếu mà chúng ta hình dung than thì những ngành công nghiệp mà sử dụng than trong nước thì đương nhiên giá thành, có đầu vào thấp hơn so với các ngành công nghiệp ở nước ngoài mà sử dụng than như Việt Nam nếu Việt Nam đánh thuế xuất khẩu cho nên họ coi rằng cái việc duy trì thuế xuất khẩu đó là hình thức trợ cấp trá hình cho các sản phẩm của 1 nước nào đó vì thế đòi xoa bỏ thuế xuất khẩu. Thế thì trong TPP họ yêu cầu xóa bỏ toàn bộ thuế xuất khẩu
- Thứ 3 là xử lý vấn đề thuế nhập khẩu đối với hàng hóa đã qua sử dụng chúng ta hình dung vào WTO chúng ta chỉ có cam kết vấn đề đối với ô tô cũ thôi, chúng ta cho nhập khẩu ô tô cũ nhưng mà giới hạn ô tô cũ là 5 năm tuổi trở xuống chứ không phải cứ trên 5 năm là được quyền nhập khẩu và chúng ta áp thuế rất cao. Hay các mặt hàng gia dụng đồ cũ khác chúng ta cắm nhập khẩu vì lý do về môi trường, an ninh..v.v. thì trong TPP họ yêu cầu xử lý cái vấn đề đó là hàng đã qua sử dụng ông cũng phải có cam kết cắt giảm cụ thể.
- Cái tiếp theo đề xuất mở của đối với một số hàng tân trang, hàng tân trang ở đây thì nó chủ yếu có 1 số liên quan đến hàng âm thanh, điện tử,...
Ví dụ như điện thoại Iphone chẳng hạn 1 thời gian chúng ta dùng mà thấy trục trực cái gì đó chúng ta trả lại cho người bán hàng thì của hàng đó họ tập hợp những cái Iphone có vấn đề đó và chuyển trả lại cho tập đoàn Apple và nơi đây họ sẽ đưa lại cho nhà máy và nhà máy dùng các công nghệ nào đó tái chế lại thì đó gọi là hàng tân trang. Hàng tân trang thì họ họ bảo là khi chúng tôi đưa lại nhà máy rồi chúng tôi sửa lại tất cả các lỗi rồi thì nó như hàng mới cho nên là các ông khi mà hàng tân trang nhập khẩu vào thì cũng phải đối xử như hàng mới. Đó là cái lẩn quẩn của họ. Còn chúng ta lo ngại là gì? là có gian lận thương mại ở đây là họ hoàn toàn không phải hàng tân trang như anh lấy hàng đồ cũ chẳng hạng và bảo hàng đồ cũ là hàng tân trang cho nên dẫn đến chuyện nhọc nhằn trong cái khai báo hải quan dẫn đến gian lận thương mại đó là vấn đề đáng quan ngại nhưng các nước TPP là hiệu xuất là phải xử lý cho phép nhập khẩu hàng tân trang và cuối cùng là các quy định chặt chẽ hơn về cấp phép nhập khẩu, cấp phép xuất khẩu doanh nghiệp độc quyền, độc quyền về xuất nhập khẩu đầu mối là các quy định phải minh bạch hơn, rõ ràng hơn so với cái quy định của WTO. Đó là yêu cầu của Hiệp định TPP đối với thương mại hàng hóa.
Kết quả chúng ta đạt được là gì? báo cáo các đồng chí về cắt giảm thuế ở gốc độ là các nước mở cửa cho chúng ta thì trong TPP hiện nay có 3 thị trường lớn nhất mà chúng ta quan tâm:
Thứ nhất là Hoa Kỳ, thứ 2 là Canada và thứ 3 là Nhật Bản đó là 3 thị trường lớn nhất để chúng ta quan tâm còn các thị trường khác là các nước ASEAN, Úc, New Zealand, Chilê chúng đã có quan hệ thương mại FTA, với Pru thì chúng ta chưa có nhưng quan hệ thương mại chúng ta rất nhỏ với Mexico mặc dù là thị trường lớn nhưng xuất khẩu chúng ta chưa nhiều. Đây là 3 nước có thị trường quan trọng đối với chúng ta thế thì họ cắt giảm đối với chúng ta như thế nào?
Với Hoa Kỳ vào thời điểm Hiệp định có hiệu lực thì 98% kim ngạch xuất khẩu nông, thủy sản và 75% kim ngạch xuất khẩu hàng công nghiệp. (cái này không tính đến hàng dệt may, dệt may lát nữa tôi xin trình bày sau vì nó là cái vấn đề quan trọng được miễn thuế nhập khẩu) …
Với Canada thì 77% thuế nông sản, 100% thuế thủy sản được miễn thuế nhập khẩu ngay khi Hiệp định có hiệu lực.
Với Nhật Bản thì 88% kim ngạch xuất nông, thủy sản được miễn thuế nhập khẩu ngay khi hiệp định có hiệu lực. Đặc biệt là đối với vấn đề gạo.
Về vấn đề gạo thì chúng ta biết qua các phương tiện thông tin đại chúng thì mặt hàng gạo là cực kỳ quan trọng, cực kỳ nhạy cảm với Nhật Bản. Vì vấn đề cực kỳ nhạy cảm như vậy và Nhật Bản đã phải chấp nhận 1 quyết định đau đớn với Hoa Kỳ là phải mở cửa thị trường gạo với với 1 lượng hàng nhập nhất định cho gạo Hoa Kỳ vào thị trường Nhật Bản thế thì việc này chúng ta cũng đã gây ra 1 cái là quan ngại về các nước thành viên TPP trong đó có Việt Nam cũng bị phân biệt đối xử và Việt Nam cũng đặt vấn đề với Nhật Bản là không chấp nhận như vậy. Bởi vì gạo cũng là mặt hàng xuất khẩu rất quan trọng đối với Việt Nam. Thì Nhật Bản cũng nói cấp kỹ thuật cũng có, cấp chính trị cũng có rất mong Việt Nam thông cảm cho cái chuyện này, việc Nhật Bản dành cho hạng ngạch cho Hoa Kỳ đó là chuyện cực chẳng đã nếu không dành cho Hoa Kỳ hạng ngạch đó thì Nhật Bản không tài nào mà tiếp tục duy trì cái TPP được, Hoa Kỳ họ sẳn sàng cho Nhật Bản ra ngoài hiệp định TPP ngay, chính vì thế để tiếp tục tham gia TPP Nhật Bản cũng chấp nhận quyết định chính trị như vậy. Nhật Bản mong Việt Nam chấp nhận tuy nhiên lần đầu tiên chính phủ Nhật Bản hứa là sẽ hỗ trợ để cho gạo của Việt Nam, hổ trợ bằng kỹ thuật tư vấn qua các hình thức khác để gạo Việt Nam có thể thắng thầu ở mức độ nhất định khi mà vào thị trường Nhật Bản và qua con số không chính thức đâu đó, qua trao đổi thì con số này có thể lên đến gần 100 nghìn tấn đó là 1 con số không nhỏ đối với chúng ta.
Về phía Việt Nam thì ta đã làm gì? ở đây không có chuyện chỉ các nước mở cho ta mà ta không phải làm gì, không có chuyện đó đâu. Việt Nam phải làm gì thì Việt Nam cam kết xóa bỏ thế nhập khẩu 66% dòng thuế ngay khi Hiệp định có hiệu lực, 86,5% dòng thuế sau 3 năm.
Các mặt hàng còn lại có lộ trình từ 5 đến 10 năm. Một số mặt hàng đặc biệt nhạy cảm lộ trình trên 10 năm hoặc duy trì thuế quan
Ví dụ như ô tô con dưới 3.000 cc, thịt gà, sắt thép chúng ta duy trì lộ trình từ 10 đến 12 năm, thịt lợn từ 7 đến 9 năm thời gian qua chúng ta đã nghe rất nhiều câu chuyện về các mặt hàng thịt gà, thịt lợn đây là những mặt hàng hết sức nhạy cảm đối với chúng ta, chúng ta duy trì 1 lộ trình rất dài.
Về thuế xuất khẩu mặc dù các nước ép rất mạnh cho đến nay chỉ có duy nhất Malaysia và Việt Nam bảo lưu được 1 số mặt hàng được áp dụng thuế xuất khẩu trong trường hợp của ta đó là với dầu thô vì mục tiêu nó sát, về than đá sản xuất trong nước và tinh quặng quý hiếm. Đây là một số mặt hàng chúng ta bảo lưu được trong khi tất cả các thành viên TPP khác là xóa bỏ toàn bộ thuế xuất khẩu. Đây là nội dung đáng chú ý.
* Nội dung thú 2 là dệt may thì báo cáo các đồng chí đây là cốt lõi đối với chúng ta trong đàm phán Hiệp định TPP. Thế thì đối với Hoa Kỳ, mặc dù Hoa Kỳ không phải là nước xuất khẩu dệt may nhưng dệt may lại là mặt hàng chính trị có yếu tố nhạy cảm chính trị đối với Hoa Kỳ . Bởi vì nhiều nhà sản xuất của Hoa Kỳ lại có quan hệ thương mại đối với các nước ở Trung Mỹ và Trung Mỹ là sân sau của Hoa Kỳ, dấn đến nếu Hoa Kỳ mở cửa thị trường ngành dệt may cho Việt Nam thì hàng dệt may của các nước Trung Mỹ khi xuất khẩu sang Hoa Kỳ sẽ cạnh tranh rất lớn đối với chúng ta, mà chúng ta các đồng chí cũng biết là mặc dù chúng ta hiện nay chịu thuế trung bình là 18%, có 1 số mặt hàng là 25% dệt may khi xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ nhưng trong suốt kể từ khi 46-35…đến nay là cái tỷ trọng của hàng dệt may trên thị trương Hoa Kỳ ngày càng tăng cho đến nay chúng ta chỉ đứng sau Trung Quốc. Trước đây thị trường chúng ta chỉ có 1% bây giờ chúng ta lên được 9% ta đang lấy dần thị phần của Trung Quốc, Trung Quốc trước kia độ khoảng 64% bây giờ còn độ khoảng bốn mươi mấy % thôi thì cái thị phần đó là do chúng ta lấy qua mà vấn đề thuế chỉ còn từ 18-25% cho nên các nước Trung Mỹ và Mexico rất sợ với hàng dệt may của chúng ta, bởi vì thuế còn cao như vậy mà cứ tăng trưởng đều đều như thế huống chi bây giờ thuế về 0% cho nên họ rất là lo ngại. Họ lo ngại thì Hoa Kỳ chiếm ưu thế đặt ra những quy định thận trọng đối với Việt Nam đối với hàng dệt may.
- Thứ nhất họ yêu cầu giảm thuế theo lịch trình dài có 1 số trường hợp là 12 năm mới về 0%
- Thứ 2 đó là họ muốn đảm bảo là bởi vì trong trong trường hợp Việt Nam được xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ với thuế xuất ưu đãi thì cái hàng đó phải là hàng Việt Nam chứ không có chuyện là hàng gian lận từ nước khác. Ví dụ như Trung Quốc họ rất lo ngại là Trung Quốc lợi dụng Việt Nam để được cập nhật thị trường Hoa Kỳ đấy là họ lo ngạy chính vì thế họ đề xuất ra 1 cái quy tắt xuất xứ từ sợi trở đi. Tức là hàng dệt may của ông ông muốn được hưởng 0% thì hàng dệt may phải làm từ sợi sản xuất trong nước hay là sợi lấy từ các nước khu vực TPP. Đây là cái họ khẳng định họ đảm bảo là gì ? là cái yếu tố gian lận quy tắt xuất sứ thì không có. Thế thì có vân đề đặt ra đối với chúng ta thì lát nữa tôi trình bày luôn
- Thứ 3 các biện pháp tự vệ và hợp tác hải quan trên biển tức là họ cũng có 1 cái quy định là gì trong trường hợp là xuất khẩu Việt Nam tăng trưởng đột biến
Ví dụ tăng từ khoảng độ 8 tỷ mà sau đó tăng lên 20 tỷ chẳng hạn thì nó gây ra 1 cái cú sốc đối với cái ngành dệt may của Hoa Kỳ, đối với ngành dệt của Hoa Kỳ thì họ có biện pháp tự vệ để bảo vệ cái hàng nội địa của họ thì họ được phép làm như thế
Và ý thứ 2 họ có quy tắc hợp tác hải quan để làm sao tránh giao thiệp thương mại, hợp tác chặt chẽ hơn nữa tránh chuyện chuyển tải giữa các nước với nhau để tránh chênh lệch thương mại. Thế thì quy tắt xuất sứ thì báo cáo các đồng chí nó có 2 mặt của nó.
Nếu mà từ giờ trở đi nó hại, nó khó khăn cho chúng ta trong giai đoạn trước mắt vì sao? vì phần lớn các hàng dệt may của chúng ta bây giờ là chúng ta nhập khẩu từ Trung Quốc. Hàng dệt, hàng vải chúng ta nhập từ Trung Quốc. Chúng ta có nguồn dệt có nguồn sợi nhưng chúng ta cũng không được dệt. Thế thì vải chúng ta nhập từ Trung Quốc theo cái số lượng thống kê chúng ta nhập khẩu từ Trung Quốc khoảng 40 tỷ USD hàng nguyên liệu về dệt may bao gồm cho cả doanh nghiệp Việt Nam, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài gia công tại Việt Nam như vậy chúng ta nhập khẩu từ Trung Quốc khoảng 40 tỷ USD. Chúng ta nhập như vậy thì nếu bây giờ yêu cầu quy tắt xuất xứ từ sợi trở đi thì rõ ràng nhiều doanh nghiệp đang xuất khẩu vào Hoa Kỳ mặc dù thế 0% nhưng vì nhập vải từ Trung Quốc cho nên không được hưởng cái lợi ích này. Đó lài cái chưa được về quy tắc xuất xứ thế nhưng chúng ta nhập vải, chúng ta cắt vải rồi may hàng bán sang Hoa Kỳ đó là cái hiện nay đang làm như vậy. Nhưng chúng ta hình dung cái đó chính vì lý do đó cái giá trị gia tăng từ xuất khẩu hàng dệt may chúng ta không cao. Chúng ta nghe là xuất khẩu 20 tỷ USD nhưng số tiền về thực sự không nhiều vì phần lớn trả cho doanh nghiệp hết rồi, chúng ta chỉ ăn tiền gia công. Nếu mà chúng ta tiếp tục chấp nhận quy tắc và cách làm là cắt và may thì mãi mãi chúng ta cũng sẽ chỉ là giá trị gia tăng nó thấp như vậy và quan trọng thứ 2 là nó có 1 điểm mà chúng ta đáng lưu ý là sự xuất hiện của 1 số nước trong khu vực.
Ví dụ Myanma với cái môi trường hiện nay đang nổi lên như vậy, cái cải cách chính trị của họ hiên nay đang làm cho Myanma hấp dẫn hơn hiện nay, nó tạo ra cái thu hút nhất định đối với các nhà đầu tư nước ngoài dẫn đến nhiều nhà đầu tư nước ngoài họ sẽ nhìn sang Myanma họ xem nếu mà nhân công rẽ hơn cạnh tranh về nhân công nếu mà giá nhân công chúng ta thấy là Trung Quốc hiện nay nhiều nhà đầu tư Trung Quốc chuyển sang Việt Nam vì giá nhân công của Trung Quốc nó tăng sang Việt Nam rẻ hơn nhưng nếu Myanma và Campuchia chẳng hạn thậm chí cả Lào mà giá nhân công lại rẻ hơn thì chắc chăn ngay ngày hôm sau là toàn bộ cái xưởng mà các tập đoàn gia công tại Việt Nam nó lại đưa sang thị trường Myanma, thị trường Campuchia lúc nào không hay và chúng ta biết rằng cái ngành dệt may nó tạo ra một cái lao động rất lớn nếu bây giờ đùng 1 cái 1 chục cái nhà máy nó đổ sang Myanma thì nó tạo ra hiệu ứng xã hội không nhỏ. Đó là 1 cái chúng ta cần chú ý cho nên quy tắc xuất xứ từ sợi trở đi ngắn hạn thì nó chưa có lợi nhưng mà trung hạn thì nó có lợi cho chúng ta, tạo ra sự bền vững và tập đoàn dệt may chúng ta hiện nay các đồng chí nào theo dõi báo chí anh Trường - Tổng Giám đốc Dệt May thì cũng đã có thông báo là hiện nay ngành dệt may có thể tự cung, tự cấp độ khoảng 50-60% nguyên liệu cho tập đoàn của mình bằng cách đầu tư các khu công nghiệp dệt, may cùng 1 khu luôn giải quyết các vấn đề về môi trường tạo ra cái nguồn nguyên liệu cho chính mình thì đó là dấu hiệu tốt.
Về kết quả đàm phán, cách giảm thuế đối với Hoa Kỳ, Hoa Kỳ đồng ý là ngay khi Hiệp định có hiệu lực 95% giảm thuế hoặc xó bỏ thuế hoàn toàn giảm 50%, mức giảm tương ứng với 63% tổng tiền thuế Hoa Kỳ thu được từ hàng dệt may của chúng ta năm 2014 thì chúng ta ước tính tương đương là 1,1 tỷ USD. Tức là khi Hiệp định có hiệu lực thì chúng ta tiết kiệm được khoảng 1,1 tỷ USD tiền thuế đáng lẽ chúng ta phải trả cho Hoa Kỳ nhưng vì Hoa Kỳ cắt giảm thuế cho nên 1,1 tỷ USD chúng ta không phải trả nữa. Còn các dòng thuế còn lại thì nó có cách giảm theo lộ trình, những dòng thuế quan trọng thì có thể cắt giảm 35% sau 3 đến 5 năm hay một số thuế nhạy cảm nhất thì nó có thể kéo dài đến 12 năm nhưng về bản chất cái mức ….chúng ta tiết kiệm được 1 cách đáng kể.
Quy tắc từ sợi trở đi chúng ta cũng đã đàm phán mặc dù là …. tôi vừa trình bày nó có cái lợi. Tuy nhiên chúng ta đã đặt câu hỏi với Hoa Kỳ đó là cái tôi cần là gì là ngay khi hiệp định có hiệu lực tôi có cái lợi ích thật sự chứ không phải tôi chờ đến tận mấy năm sau ngành công nghiệp của tôi phát triển thì tôi mới được hưởng lợi. Chính vì thế Hoa Kỳ chấp nhận chúng ta 2 cái linh hoạt và đây là lần đầu tiên Hoa Kỳ chấp nhận cho 1 đối tác mà đàm phán FTA với Hoa Kỳ
Thứ nhất danh mục nguồn cung thiếu hụt. Thế nguồn cung thiếu hụt là gì tức là bình thường quy tắc xuất xứ từ sợi trở đi là gì? là ông phải lấy vải, nhập vải như các nước trong TPP chứ không phải là từ ngoài TPP bởi nếu nhập từ ngoài TPP không được hưởng thuế ưu đãi thì Hoa Kỳ chấp nhận cho 1 số chủng loại vải ta có thể nhập từ ngoài TPP chúng ta cũng có thể nhập từ Trung Quốc, Hàn Quốc từ đâu đó,..để chúng ta sản xuất ra hàng dệt may và bán ra thị trường Hoa Kỳ vẫn được hưởng thuế ưu đãi. Đó là là cái linh hoạt đầu tiên tức là xâm nhập nguồn cung thiếu hụt
Thứ 2 là cơ chế một đổi một tức là nếu chúng ta nhập 1 mét vải bông của Hoa Kỳ để may quần thì Hoa Kỳ cũng cho chúng ta được quyền chúng ta nhập 1 mét vải ở khu vực ngoài TPP để may quần xuất khẩu sang Hoa Kỳ. Đây là cơ chế 1 đổi 1 và theo đánh giá của ngành dệt may đây là lợi ích rất lớn và đây là cái linh hoạt ở cấp độ chính trị, cấp bộ tức là cấp độ Bộ trưởng tức là đại diện thương mại (Roman) 54-45 đưa ra cuối cùng họ mới chấp nhận cái cơ chế này vì cơ chế này rất thuận lợi tăng thêm đáng kể cho cái kim ngạch xuất khẩu cho ngành dệt may Việt Nam và tránh được tác động bất lợi trong ngắn hạn đối với cái quy tắc xuất xứ từ sợi trở đi. Đó là kết quả đàm phán về dệt may.
* Dịch vụ và đầu tư
Đối với dịch vụ và đầu tư báo cáo các đồng chí có các nghĩa vụ chính thì chúng ta có 3 nghĩa vụ chính
- Thứ nhất là đối xử tối huệ quốc (MFN) tức là chúng ta phải đối xử nhà đầu tư của các nước TPP như nhau, không có sự phân biệt đối xử tức là chúng ta đối xử với nhà đầu tư Hoa Kỳ như thế nào thì đối xử với nhà đầu tư Chi lê cũng như vậy
- Thứ 2 đối xử quốc gia tức là chúng ta đối xử với nhà đầu tư Việt Nam như thế nào thì chúng ta sẽ đối xử với nhà đầu tư nước ngoài như nhau.
- Thứ 3 chúng ta định mở cửa những ngành hàng nào thì chúng ta mở cửa quy định điều kiện đó ra. Ở đây có 1 cái khác biệt đó là đối với các Hiệp định mà chúng ta đã đàm phán hay tổ chức thương mại thế giới thì chúng ta hay theo cách tiếp cận nó gọi chọn cho chúng ta hay nghe chọn cho và chọn bỏ. Chọn cho tức là chúng ta cho cái gì chúng ta nêu ra còn những cái gì không nêu là chúng ta không cho. Hiện nay nhiều cái văn bản pháp luật của chúng ta hiện nay đang lợi thế như vậy, chỉ có văn bản Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư thì có cái hướng là chọn bỏ tức là những gì chúng ta hạn chế thì chúng ta nêu ra còn những gì chúng ta không nêu ra thì chúng ta không hạn chế.
Cách tiếp cận của TPP nó là chọn bỏ, chẳng hạn như đối với vấn đề đối xử quốc gia chẳng hạn thì ông phân biệt đối xử với nhà đầu tư trong nước với nhà đầu tư ở nước ngoài ở nước ngoài ở chỗ nào thì ông nêu nó ra. Ví dụ như ông chỉ cho nhà đầu tư nước ngoài được quyền mua 30% cổ phần trong ngân hàng cổ phần Việt Nam trong khi nhà đầu tư Việt Nam được quyền mua 100%. Đó là sự phân biệt đối xử giữa nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài. Nếu ông có sự phân biệt này ông nêu nó ra còn nếu ông không nêu là ông không phân biệt đối xử. Tất cả các cái phân biệt đó thì nó phải được thể hiện trong 1 cái danh mục nó gọi là danh mục các biện pháp không tương thích và trong đàm phán mở của thị trường dịch vụ đầu tư là chúng ta đàm phán danh mục này, họ sẽ bảo là gì, tại sao danh mục ông dài thế ông cho ngắn mà thôi chúng ta bảo là danh mục này, tại sao tôi lại cầm vì vấn đề an ninh, vì vấn đề kinh tế, vì vấn đề xã hội chúng ta phải bảo lưu, bảo vệ. Chúng ta bảo lưu danh mục càng dài thì trong tương lai cái linh hoạt chúng ta càng lớn còn nếu danh mục càng ngắn thì linh hoạt của chúng ta càng ít đi chắc chắn là như vậy.
Cái vấn đề thứ 2 đó là cái điều chỉnh chính sách chúng ta phải cam kết trong một cái nguyên tắc chỉ điều chỉnh chính sách theo hướng thuận lợi hơn, tốt hơn đó là cơ chế chỉ tiến không lùi. Ví dụ như là năm 2014 chúng ta giao 1 chính sách cho phép nhà đầu tư nước ngoài được quyền mua 49% cổ phần trong các công ty chứng khoán thế thì năm 2015 chúng ta không được phép giảm từ 49% xuống còn 30% mà chúng ta phải tiếp tục là từ 49% trở lên mà thôi. Nếu chúng ta giảm từ 49% xuống còn 30% chẳng hạn là vi phạm cam kết. Chúng ta không được phép đi lùi đó là cái quy định như vậy chỉ tiến không có lùi.
Cái cuối cùng là cơ chế giải quyết tranh chấp giữa nhà nước và nhà đầu tư. Đây là cái điểm mà báo chí và nhiều người quan tâm bỡi vì nếu nhà đầu tư vi phạm quyền lợi chẳng hạn như là 1 tỉnh nào đó đưa ra 1 cái quyết định cấp phép đầu tư, sau đó lại thu hồi giấy phép đầu tư của nhà đầu tư đó lại trường hợp ở Bình Đinh chẳng hạn chúng ta có 1 cái tranh chấp ở Bình Định chẳng hạn. Họ kiện chúng ta ra tòa nhưng cuối cùng họ thua nhưng ở đây cái cơ chế là nhà đầu tư được quyền kiện chính phủ Việt Nam ra trọng tài và trọng tài có quyền phân xử là gì là liệu quyết định của chính phủ Việt Nam là đúng hay sai, nếu sai chúng ta phải bồi thường còn nếu đúng thì không vấn đề gì cả.
Ở đây nó có vấn đề là nhà đầu tư được kiện chính phủ đây là điểm không mới nhưng nhiều báo chí cũng rất là đây là cái hết sức quan ngại trong cái ảnh hưởng đến độc lập tự chủ về vấn đề gì đó thì cái này không là vấn đề mới mà vấn đề này chúng ta đã cam kết tại nhiều Hiệp định PPA, Hiệp định Việt - Nhật, Hiệp định đầu tư song phương và chúng ta đã ký kết và tính đến nay chúng ta cũng chỉ có 3, 4 vụ kiện xảy ra so với gần 20 năm chúng ta mở cửa.
3. Kết quả đàm phán
Việc mở cửa thị trường báo cáo các đồng chí chúng ta đảm bảo được chủ yếu cam kết như mức độ cam kết trong tổ chức thương mại thế giới WTO thôi và tương đương 1 số FTA đã ký, chúng ta mở ra 1 số lĩnh vực:
3.1. Về viễn thông:
Thì chúng ta cho phép thành lập công ty 100% vốn nước ngoài. Ở dịch vụ không gắn vào hạ tầng mạng sau 5 năm kể từ khi hiệp định có hiệu lực.
Và đối với dịch vụ bán lẻ hiện nay chúng ta đã có duy trì là gì? Là đối với các tập đoàn, công ty phân phối hay các siêu thị nước ngoài, ví dụ như Big C nếu họ muốn mở thêm 1 điểm bán lẻ nào nữa thì họ phải xin phép và chúng ta có quyền đồng ý hay không đồng ý. Đấy là 1 cái quy định hiện nay chúng ta hạn chế sự mở rộng quá lớn của các tập đoàn phân phối.
Ở đây đặt ra 1 vấn đề ảnh hưởng đối với quyền lợi của các tập đoàn nước ngoài và họ yêu cầu chúng ta phải họp và cuối cùng sau khi tham vấn với các nhà bán lẽ thì chúng ta đồng ý là gì? Là bỏ quy định ấy sau 5 năm kể từ khi hiệp định có hiệu lực.
3.2. Về dịch vụ đầu tư:
Chúng ta chấp nhận cơ chế nhà đầu tư được kiện chính phủ vì lý do chúng ta đã đồng ý trong nhiều hiệp định khác rồi Việt - Nhật có rồi, nhiều hiệp định đầu tư song phương có rồi, chúng ta đồng ý ở đây không có vấn đề gì cả. Mà thậm chí ở trong quy định này họ còn đưa thêm một số điều kiện để làm sao hạn chế khả năng nhà đầu tư kiện chính phủ, hiệp định này thậm chí còn tốt hơn so với một số hiệp định mà chúng ta đã ký. Trong hiệp định đưa ra quy định ràng buộc khiến nhà đầu tư kiện chính phủ khó khăn hơn, khó thành công hơn, đây là một điểm mới.
Và chúng ta chấp nhận ràng buộc chính sách hiện hành trong lĩnh vực đất đai, khai thác khoáng sản, tức là gì? Chính sách của chúng ta sẽ đảm bảo không bao giờ là đi thấp hơn chính sách hiện hành nữa, ví dụ như là hiện nay về năng lượng chúng ta cho nước ngoài đầu tư để thăm dò khoáng sản thì trong tương lai chúng ta không thể nào đưa chính sách là cấm nước ngoài đầu tư nữa mà chúng ta phải đảm bảo họ tiếp tục được thăm dò khoáng sản tại Việt Nam. Đó là về dịch vụ đầu tư.
3.3. Mua sắm công:
Đây là lĩnh vực mới, lần đầu tiên chúng ta đàm phán trong một khuôn khổ Hiệp định thương mại tự do hay đàm phán trong luật quốc tế. Về mua sắm công chia làm 2 lĩnh vực là: đàm phán quy tắc và đàm phán mở cửa thị trường.
- Về đàm phán quy tắc: có mấy nội dung cơ bản như sau:
+ Thứ nhất là, chúng ta phải đảm bảo là đối xử tối huệ quốc và đối xử quốc gia. Mua sắm công tức là gì? Bản chất là đảm bảo cho chính phủ sử dụng tiền đóng thuế của dân làm sao cho hiệu quả và minh bạch, thế thì hiện nay chúng ta có luật đấu thầu rồi nhưng nhiều khi cách đấu thầu đó là thầu kín, không được mở rộng công khai và ngoài ra không tuân thủ quy luật quốc tế. Cho nên họ yêu cầu các mở thầu đó phải được đối xử tối huệ quốc tức là đối xử giữa nhà thầu các nước TPP ngang nhau, nhà thầu của nước ngoài và nhà thầu của Việt Nam cũng ngang nhau.
+ Thứ hai là, xoá bỏ các điều kiện dự thầu mang tính ưu tiên tính nội bộ, ví dụ chúng ta yêu cầu nhà thầu khi thắng thầu là phải mua nguyên vật liệu của Việt Nam, sử dụng máy móc của Việt Nam tức là các điều kiện đưa ra như vậy, ông muốn thắng thầu mà 1 trong điều kiện thắng thầu là gì? Là phải sử dụng toàn bộ thiết bị hoặc mua toàn bộ các sản phẩm của Việt Nam. Với điều kiện như vậy, họ yêu cầu chúng ta không duy trì yêu cầu như thế.
Ngoài ra, phải minh bạch thông tin, thủ tục, tất cả các khâu: điều kiện đấu thầu như thế nào và quy định ra làm sao, tiêu chuẩn thắng thầu ra làm sao phải minh bạch, chứ không phải là những điều kiện chỉ biết với nhau đằng sau cuộc đấu thầu. Và có quy định phải bảo đảm liêm chính tức là không có yếu tố tham nhũng gì ở đây và xem xét nếu nhà thầu có vấn đề gì thì học đượ quyền khiếu nại, có quyền bảo lưu không mở cửa vì lý do an ninh quốc phòng. Ví dụ chúng ta đấu thầu về mua sắm công dụng đương nhiên là không có chuyện mở cửa rồi, hay mua sắm các thiết bị giám sát cho an ninh chẳng hạn thì đương nhiên là không thể mở cửa, tất cả những lý do về an ninh quốc phòng thì chúng ta không thể mở cửa, loại trừ thuế đất bất động sản, mua sắm nhằm mục đích trợ cấp, trợ giá, mua sắm nhằm kích thích kinh tế.
- Về mở cửa thị trường: Dựa trên quy tắc đó thì các nước có biểu cam kết riêng về mở cửa thị trường để xem là mình mở cửa đến đâu, mở cửa như thế nào? Thì có mấy vần đề:
+ Thứ nhất là, cam kết đại diện cơ quan. Thông thường mua sắm công người ta hiểu là gì? Là mua sắm của chính quyền thì chính quyền có thể là chính quyền Trung ương, chính quyền địa phương và thậm chí bây giờ họ cho rằng mua sắm của doanh nghiệp nhà nước cũng được coi là mua sắm công. Thì ở đây cam kết đại diện cơ quan, chúng ta cam kết xem là chúng ta mở cửa cấp Trung ương, các bộ ngành, các cơ quan Trung ương, cấp địa phương, cấp Uỷ ban nhân dân, cấp sở, các doanh nghiệp nhà nước thì chúng ta có mở hay không?
+ Thứ hai là, cam kết hàng hoá dịch vụ, không phải tất cả các hàng hoá, tất cả các hàng hoá phải đều đấu thầu hay không? Hay chỉ 1 số loại thì không đưa ra?
+ Thứ ba là, cam kết ngưỡng giá trị tức là từ 8 tỷ trở lên thì mới đấu thầu còn dưới 8 tỷ thì tôi không mở thầu hay là 18 tỷ thì chúng ta mới mở thầu còn dưới 18 tỷ tôi không mở thầu. Đấy là về ngưỡng giá trị.
+ Thứ tư là, vấn đề chọn bỏ, chọn cho tức là gì? Chúng ta mở chỗ nào, mở ngày nào, mở cơ quan nào thì chúng ta đưa ra còn không đưa ra là không mở hay là những cơ quan nào mở chúng ta nêu ra, không nêu ra là chúng ta mở, cách thứ là như vậy.
Báo cáo các đồng chí, kết quả đàm phán như sau:
- Về đàm phán quy tắc:
+ Thứ nhất, chúng ta chấp nhận sử dụng hình thức đấu thầu quốc tế rộng rãi tức là chúng ta chấp nhận hình thức này.
+ Thứ hai, chúng ta không áp dụng các điều kiện dự thầu mang tính ưu tiên với nhà thầu. Tuy nhiên, chúng ta duy trì lộ trình chuyển đổi là 25 năm tức là thời gian rất dài. Tức là kể từ khi hiệp định có hiệu lực nhanh nhất là khoảng vào năm 2018 thì sau 25 năm thì chúng ta mới phải bỏ quy định là dành ưu tiên cho nhà thầu trong nước. Tức là chúng ta vẫn được quyền yêu cầu khi thắng thầu ông phải sử dụng hàng hoá thiết bị của Việt Nam trong 25 năm. Đây là thời hạn lộ trình rất dài.
+ Thứ ba, chúng ta đồng ý minh bạch thông tin, thủ tục tất cả các khâu, trong tương lai mặc dù chúng ta đồng ý một số quy tắc như vậy tuy nhiên chúng ta phải minh bạch tất cả các thông tin quy trình mở thầu, tiêu chuẩn tất cả mọi thứ chúng ta phải minh bạch theo đúng thông lệ quốc tế.
- Về đàm phán mở cửa thị trường:
+ Về đại diên cơ quan: ở hiệp định TPP này khác với FTA với EU, chúng ta chỉ cam kết cấp Trung ương, không cam kết cấp địa phương và doanh nghiệp nhà nước. Ở Trung ương chúng ta không cam kết hết, loại trừ ngân hàng nhà nước, Văn phòng chính phủ, Bộ tư lệnh 5 và chúng ta cam kết không phải tất cả các đơn vị của Bộ Quốc phòng, Bộ Công an mà chỉ một số đơn vị mà do Bộ Quốc phòng, Bộ Công an lựa chọn. Cấp địa phương, cấp doanh nghiệp nhà nước chúng ta không cam kết.
+ Về sản phẩm hàng hoá: đưa ra tất cả các mặt hàng, loại trừ một số mặt hàng nhạy cảm như: xăng, dầu, gạo, nhu dược phẩm, nhu dược phẩm có tính nhạy cảm vì dược phẩm là yếu tố đảm bảo nhu cầu cung cấp tốt cho nhân dân và nhu cầu thúc đẩy nền công nghiệp dược của nội địa nữa.
Chính vì thế chúng ta có 1 bảo đảm hết sức quan trọng, phức tạp với Hoa Kỳ. Cuối cùng, chúng ta đạt được kết quả như sau: Trong 3 năm đầu ta chưa mở cửa đấu thầu dược tức là mua sắm thuốc của các bệnh viện công hiện nay thì vẫn bình thường, họ vẫn được chọn thầu theo cách thức của họ. Nhưng sau 3 năm họ phải mở cửa tuy nhiên không phải họ mở cửa tất cả 100% giá trị gói thầu mà họ mở cửa theo mức độ nhất định, ví dụ ban đầu là 30% gói thầu, họ cần mua 1 triệu đô la tiền thuốc thì họ chỉ cần mở thầu 300 ngàn thôi còn 700 ngàn họ vẫn được quyền chỉ định nhà thầu.
Sau 15 năm chúng ta đồng ý giảm dần xuống 50% tổng giá trị gói thầu và dừng lại ở đó. Bao giờ cũng vậy, kể cả khi hiệp định TPP có hiệu lực và mãi mãi về sau thì chúng ta vẫn có điều kiện dành 50% giá trị gói thầu để cho các doanh nghiệp trong nước phát triển.
+ Về dịch vụ của chúng ta cũng vậy, không thể chào tất cả các dịch vụ mà chúng ta chỉ chào các dịch vụ thông thường như xây dựng, máy tính, về ngưỡng giá trị thì sau 25 năm ta mới phải như các nước TPP áp dụng ở mức 130 ngàn quyền giữ vốn đặc biệt tức khoảng 4 tỷ đồng tức là sau 25 năm ta mới phải như các nước TPP. Đối với dịch vụ thì sau 15 năm chúng ta mới đạt ngưỡng là 250 tỷ đồng. Còn trước thời gian đó thì chúng ta có ngưỡng riêng của chúng ta. Đây là mức cam kết rất là sâu và rộng mà chúng ta cần linh hoạt rất lớn.
3.4. Về lao động:
Có thể nói đây là vấn đề nhạy cảm nhất trong đàm phán và đến bây giờ vẫn là 1 nội dung chúng ta vẫn đang đàm phán với Hoa Kỳ. Cái này xin phép trình bày không quá sâu vì nó quá kỹ thuật và quá nhạy cảm. Chỉ nói làm sao cho các đồng chí có thông tin và nắm chính xác để khi tuyên truyền được chuẩn xác.
- Thứ nhất, Hiệp định TPP này cũng giống như quan điểm các nước là bảo vệ quyền lợi của người lao động thì cái này chúng ta chia sẻ. Vì chúng ta là thành viên của ILO rồi.
Thế thì ở đây có nhiều trường hợp có thể có những báo chí hay dư luận cho rằng đàm phán vấn đề lao động là yêu cầu của Hoa Kỳ, là tiêu chuẩn của Hoa Kỳ, cái này không chính xác. Bởi vì sao? Vì hiệp định TPP này không yêu cầu bất kỳ cái gì ngoài nội dung mà tổ chức lao động quốc tế đã đưa ra. Họ chỉ yêu cầu là gì? Tất cả các thành viên TPP khi tham gia hiệp định này thì phải đảm bảo, tuân thủ, thực thi đầy đủ các công ước của Tổ chức Lao động quốc tế ILO. Chỉ khác duy nhất là Hoa Kỳ quan ngại là nếu không có chế tài thì các nước có thể vi phạm, có thể lờ đi và không thực thi. Chính vì thế, họ yêu cầu có chế tài, quan điểm của chúng ta là quan điểm hợp tác không có chế tài gì cả, cùng bảo nhau mà làm thôi. Tôi sai thì cười 1 cái tôi xin lỗi nhưng họ thì không có chuyện đó. Nếu anh vi phạm thì ông phải tham vấn với chúng tôi để ông tìm cách ông sửa sai phạm đó. Nếu ông không sửa tôi sẽ nhắc ông lần nữa mà nếu ông không sửa nữa thì tôi sẽ thảo luận với ông để tìm cách thức xử lý và ông vi phạm thì tôi sẽ xem xét là gì? Có hướng rút lại các ưu đãi thương mại. Đấy là bản chất của chương lao động như vậy.
Mục tiêu của chúng ta về lao động là gì? Là tuân thủ theo quy định của ILO. Tuy nhiên có nội dung liên quan đến ILO mặc dù chúng ta là thành viên rồi nhưng chúng ta cũng chưa phê chuẩn 2 công ước còn lại về công ước tự do liên kết và thương lượng tập thể. Theo công ước này thì người lao động có quyền được thành lập công đoàn của riêng họ để bảo vệ quyền lợi của họ và các công đoàn này trong tương lai có quyền liên kết lại với nhau để bảo vệ quyền lợi của họ, đấy là 1 vấn đề mà theo công ước ILO.
Các vấn đề này sẽ đặt ra những thách thức đối với chính sách của chúng ta và vai trò của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam thì chúng ta cần phải có những cách thức xử lý đàm phán làm sao để phù hợp với hệ thống chính trị của chúng ta và chúng ta liên tục khẳng định rằng tất cả các nội dung đàm phán ở đây không thể nào thay thế vai trò tuyệt đối của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam và cũng như là không thể nào ảnh hưởng bất kỳ, 1 chút nào đến hệ thống chính trị của Việt Nam, đấy là nguyên tắc bất di bất dịch từ trước đến sau của chúng ta. Thế thì, trên cơ sở những nguyên tắc đó về cơ bản cho đến nay chúng ta thống nhất được với Hoa Kỳ, các đối tác lớn và tuy nhiên 2 bên cần tiếp tục thảo luận để làm rõ hơn một số nội dung về kỹ thuật, nội dung chi tiết như thế nào thì nó rất kỹ thuật tôi xin phép dừng tại đây.
3.5. Về doanh nghiệp nhà nước:
Thì trong hiệp định thì các doanh nghiệp nhà nước phải hoạt động theo cơ chế thị trường tức là nhà nước không được can thiệp trực tiếp vào các hoạt động của doanh nghiệp thương mại nhà nước. Họ được quyền tự chủ đưa ra quyết định thương mại của họ và các doanh nghiệp nhà nước không được vi phạm cạnh tranh khi có vị trí độc quyền gây ảnh hưởng đến thương mại và đầu tư và doanh nghiệp nhà nước phải minh bạch hoá một số công ty như tỷ lệ vốn của nhà nước, báo cáo tài chính, phải được kiểm toán và được phép công bố, nhà nước không được trợ cấp quá mức gây ảnh hưởng lớn đến các doanh nghiệp khác.
Kết quả đàm phán là gì?
- Là chúng ta chỉ cam kết với các doanh nghiệp nhà nước đạt ngưỡng doanh thu nhất định, cụ thể là các doanh nghiệp nhà nước có doanh thu hàng năm dưới 16.000 tỷ đồng khi hiệp định có hiệu lực và dưới 6.500 tỷ đồng 5 năm sau khi hiệp định có hiệu lực thì không phải thực thi phần lớn hiệp định. Theo cam kết này thì chỉ có 1 số ít doanh nghiệp nhà nước lớn thuộc diện chịu điều chỉnh của hiệp định thôi, chúng tôi tính ra khoảng gần 100 doanh nghiệp.
Bảo lưu loại trừ tất cả các doanh nghiệp hoạt động có liên quan đến quốc phòng an ninh, riêng một vài doanh nghiệp của Bộ Quốc phòng và Bộ Công an khi tham gia kinh doanh thông thường trên thị trường, ví dụ như Tập đoàn Viettel chẳng hạn thì phải tuân thủ cam kết vì tập đoàn Viettel bây giờ là tập đoàn đa quốc gia rồi, họ rất là lớn. Nếu họ không tuân thủ cam kết thì các nước TPP không chấp nhận khi họ kinh doanh mảng về quốc phòng an ninh của họ thì không phải cam kết nhưng khi họ kinh doanh thông thường, ví dụ: phần viễn thông thì phần viễn thông đó phải tuân thủ cam kết, nhưng các nội dung liên quan đến quốc phòng an ninh để phục vụ cho Đảng và nhà nước thì các phần đấy không liên quan đến cam kết, không chịu cam kết thì tôi thông báo thêm như vậy.
- Với các doanh nghiệp khác, chất lượng cạnh tranh bình đẳng, nếu cần nhà nước có thể hỗ trợ nhưng mức hỗ trợ không gây ảnh hưởng tiêu cực tới thương mại và đầu tư của các nước TPP và đồng ý minh bạch thông tin trừ các thông tin về quốc phòng an ninh và loại trừ tất cả các doanh nghiệp công ích và các doanh nghiệp thực hiện chương trình quan trọng về phát triển kinh tế xã hội.
3.6. Về sở hữu trí tuệ:
Báo cáo các đồng chí đây là nội dung khó khăn nhất đối với các nước TPP, như tôi đã trình bày đây là 1 trong 3 vấn đề còn tồn tại dẫn đến hội nghị bộ trưởng TPP tại Ha-wai tháng 7 vừa rồi thất bại.
* Thế thì TPP có mấy yêu cầu chính:
- Thứ nhất, nâng cao bảo hộ sáng chế về dược phẩm.
- Thứ hai, nâng cao mức độ bảo hộ dữ liệu thử nghiệm cho dược phẩm và nông hoá phẩm.
- Thứ ba, nâng cao mức độ kéo dài quyền tác giả và quyền đăng quang, hiện nay chúng ta theo công ước ... (1h16’45s) là 50 năm, thì bây giờ họ đề nghị lên là 70 năm.
- Thứ tư, siết chặt thực thi bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ đặc biệt là quyền tác giả và quyền liên quan trong môi trường số thì cái này xử lý các vấn đề hiện nay chúng ta biết rằng vừa rồi Chánh Tín phá sản vì phim mới làm ra trước khi chiếu thì xuất hiện tràn lan trên mạng rồi thì phá sản, trong trường hợp như thế thì rất tội cho người ta, người ta chi hàng chục tỷ để làm bộ phim mà chỉ vì hành vi có thể hành vi đó không có yếu tố thương mại, không có mục tiêu kinh doanh gì cả chỉ có mục tiêu là chia sẻ cho anh em trên mạng xem thôi nhưng đùng 1 cái là có thể phá sản 1 công ty, 1 con người. Đấy là cái mà các nước rất quan ngại, đề nghị phải siết chặt thực thi hình sự, thậm chí là yêu cầu truy tố hình sự đối với 1 số hành vi gây ra ảnh hưởng lớn như thế.
* Về phía chúng ta: kết quả như sau
Đồng ý áp dụng tiêu chuẩn cao của hiệp định TPP theo lộ trình phù hợp với trình độ phát triển, không phải chúng ta thực thi ngay các quy định của TPP về sở hữu trí tuệ mà chúng ta là gì? Mà ở mức độ, tôi phát triển ở mức độ nào thì tôi sẽ thực thi khoảng chừng độ đó.
Ví dụ tiêu chuẩn của anh là mới phát triển thì chỉ khi nào tôi ở mức độ phát triển thì theo tính toán của ngân hàng thế giới quy cái mức cộng với mức phát triển là thu nhập bình quân quốc dân đầu người là 10.000 đô la/1 năm. Chúng ta yêu cầu chỉ khi nào mức độ thu nhập bình quân của chúng ta là 10.000 đô là 1 năm thì chúng ta mới thực thi cam kết. Thì chúng tôi tính ra còn khoảng 20 đến 25 năm thì chúng ta mới phải thực thi cam kết.
Các mục còn lại chủ yếu là vấn đề thực thi thì chúng ta đồng ý có lộ trình tuỳ theo lộ trình chúng ta có 57 năm, thách thức lớn nhất của chúng ta hiện nay là chúng ta chưa có đội ngũ thẩm phán, điều tra viên về các vụ việc vi phạm hình sự đối với sở hữu trí tuệ, chúng ta chưa có đội ngũ đó. Chúng ta phải có thời gian đào tạo, bây giờ chẳng hạn có vụ việc về sở hữu trí tuệ thì công an phải làm cuộc điều tra, hiện nay công an năng lực đó thì chưa cao và ngay cả toà án cũng chưa có đội ngũ thẩm phán đào tạo riêng về sở hữu trí tuệ để phán xử để từ đó đưa ra án 5 năm hay 7 năm hay là án treo. Đấy chúng ta cần thời gian để chúng ta đào tạo đội ngũ điều tra viên, đội ngũ thẩm phán để có thể thực thi cam kết của TPP.
3.7. Về môi trường:
Chỉ có vấn đề duy nhất liên quan đến trợ cấp thuỷ sản thôi, tức là họ yêu cầu không được trợ cấp nghề cá, trợ cấp thuỷ sản mà có thể ảnh hưởng gây cạn kiệt các nguồn hải sản. Nước chúng ta đang trợ cấp cho ngư dân đánh bắt xa bờ, cái này chúng ta có quan ngại là nếu bây giờ bảo chúng tôi không trợ cấp cho hải sản nữa thì làm sao chúng tôi duy trì được các chính sách hỗ trợ cho ngư dân đánh bắt xa bờ. Và cuối cùng là các nước TPP chấp nhận là gì? Là cho phép Việt Nam tiếp tục duy trì chính sách trợ cấp ngư dân đánh bắt xa bờ là mục tiêu an ninh của chúng ta.
Còn các quy định vi phạm về môi trường thì phải xử lý theo pháp luật, chúng ta có luật môi trường nên về cơ bản luật của ta cũng phù hợp với mục tiêu của TPP.
3.8. Về thương mại điện tử:
TPP quy định là không phân biệt đối xử sản phẩm số, là cho phép tự do truy cập di chuyển thông tin trên Internet và yêu cầu đặt trang thiết bị máy chủ tại nước sở tại như điều kiện cung cấp dịch vụ.
Tuy nhiên có một vấn đề này, đây là nội dung có liên quan đến báo chí, trong trường hợp mà chúng ta thấy liên quan đến an ninh quốc phòng, trật tự an toàn xã hội, thuần phong mỹ tục thì chúng ta có quyền áp dụng các biện pháp ngăn chặn chứ không phải thông tin tự do cứ thế mà tự do. Nếu chúng ta thấy 1 trang web nước ngoài nào có yếu tố ảnh hưởng đến an ninh quốc phòng, thuần phong mỹ tục của chúng ta thì chúng ta vẫn được quyền chặn những trang web cung cấp thông tin bình thường, trang web lành mạnh thì không có lý do gì ngăn chặn cả nếu ảnh hưởng tới an ninh quốc phòng, thuần phong mỹ tục, chính sách của chúng ta thì chúng ta có quyền ngăn chặn mà không vi phạm hiệp định của TPP.
II. HIỆP ĐỊNH THƯƠNG MẠI TỰ DO GIỮA VIỆT NAM VÀ LIÊN MINH CHÂU ÂU (EU)
1. Quá trình đàm phán hiệp định
Nhân chuyến thăm EU của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng thì lãnh đạo 2 bên thống nhất khởi động đàm phán về hiệp định FTA và trong EU có khác với các hiệp định khác là gì? EU yêu cầu ta phải có 1 tài liệu về kỹ thuật để làm khuôn khổ cho đàm phán FTA. Đây là lần đầu tiên ta đàm phán thảo luận với 1 đối tác mà trước khi đàm phán phải có nghiên cứu kéo dài đến gần 2 năm để làm khuôn khổ cho đàm phán FTA thì gần 2 năm chúng ta mới xong tài liệu. Và sau gần 3 năm đàm phán với 14 phiên chính thức, dự phiên giữa kỳ, cấp bộ trưởng, cấp trưởng đoàn và các nhóm kỹ thuật thì 2 bên đạt được thoả thuận nguyên tắc toàn bộ các nội dung cơ bản của hiệp định và như ngài đại sứ EU có nói thì dự kiến EU có thể phê chuẩn trong năm nay.
2. Về các bước đàm phán
Về các bước đàm phán thì nội dung của hiệp định FTA của Việt Nam và EU thấp hơn, hẹp hơn nhiều so với TPP chỉ có 15 chương nhưng trong đó có 1 số chương lớn mà chúng ta cần quan tâm: hàng hoá, dệt may, mở cửa thị trường dịch vụ đầu tư, mua sắm công, sở hữu trí tuệ còn các nội dung lao động, môi trường, thương mại điện tử, doanh nghiệp nhà nước thì họ không quan tâm nhiều chủ yếu vấn đề hợp tác không đặt nặng vấn đề cam kết như hiệp định TPP.
Trong EU có 5 vấn đề mà chúng ta cần quan tâm tức hàng hoá, dệt may, dịch vụ đầu tư, mua sắm công và bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ. Mà trong đó, 2 nội dung quan trọng cuối cùng là mua sắm công và bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ còn các nội dung khác dệt may, hàng hoá, đầu tư thì nhẹ nhàng hơn nhiều.
Về thương mại hàng hoá: Cam kết của EU tôi xin đọc ngắn gọn, ngay khi hiệp định có hiệu lực thì EU sẽ xoá bỏ thuế xuất và nhập khẩu đối với 85,6% dòng thuế tương đương với 70,3% kim ngạch xuất khẩu của ta sang EU. Sau 7 năm kể từ khi hiệp định có hiệu lực thì EU sẽ xoá bỏ thuế nhập khẩu đối với 99,2% dòng thuế tương đương với 99,7% kim ngạch xuất khẩu của ta. Đối với 0,3% còn lại EU sẽ dành cho ta thuế quan đối với thuế nhập khẩu không hoàn lại 0%. Như vậy sau 7 năm có thể nói là gì? 100% xuất khẩu của ta sang EU được miễn thuế hoàn toàn. Đấy là kết quả về đàm phán thuế.
3. Về cam kết của ta dành cho EU
- Với xuất khẩu: Thì chúng ta được bảo lưu 57 dòng thuế như TPP chúng ta vẫn bảo lưu được đối với thuế xuất khẩu EU đòi ta bỏ luôn thuế xuất khẩu nhưng cuối cùng đàm phán chúng ta giữ được 1 số dòng thuế.
- Về kết nối hành chính:
+ Thì ta cam kết với EU như sau ô tô, phụ tùng, xe máy thì ta đưa thuế nhập khẩu về 0% sau 9 năm, ô tô trên 2.500 cm3 (phân khối) với xe chạy diesiel, trên 3.000 cm3 với xe chạy xăng và 10 năm với các ô tô khác, 7 năm với phụ tùng ô tô, 10 năm đối với xe máy thường và 7 năm đối với xe máy trên 150 cm3. Vậy là sau 9 năm kể từ khi hiệp định có hiệu lực, ví dụ 2017 có hiệu lực thì 2026 thuế sẽ là 0%.
+ Rượu vang, rượu mạnh miễn thuế 0% sau 7 năm và 10 năm với bia, thịt lợn và thịt gà thì sau 7 năm thì chúng ta đưa thuế về 0%, 3 năm thịt lợn đông lạnh và 9 năm với các loại thịt đông lạnh khác, với thịt gà thì lộ trình xoá bỏ thuế quan là 10 năm, thịt bò thì sau 3 năm còn xăng dầu chúng ta đồng ý xoá bỏ thuế xuất khẩu sau 10 năm.
+ Về dệt may: trong 5 năm kể từ khi hiệp định có hiệu lực thì EU xoá bỏ thuế nhập khẩu 77,3% kim ngạch xuất khẩu của ta, 22,7% còn lại sẽ được xoá bỏ sau 7 năm, về xuất xứ EU chỉ yêu cầu quy tắc từ vải trở đi và rất phù hợp với cách làm của doanh nghiệp Việt Nam hiện nay TPP là từ sợi trở đi còn EU từ vải trở đi, họ nới lỏng hơn so với TPP như vậy các doanh nghiệp đang xuất khẩu dệt may sang thị trường EU thì có thể tận dụng ngay lợi ích thuế nhập khẩu cắt giảm xuống.
- Về đầu tư: cơ bản như TPP thôi nhưng chủ yếu khác biệt ở ngân hàng chúng ta cho phép các tổ chức tín dụng EU nâng mức nắm giữ cổ phiếu nước ngoài lên 49% trong 2 ngân hàng thương mại cổ phần của Việt Nam, chúng ta biết rằng hiện nay các nhà đầu tư nước ngoài không được nắm quá 30% cổ phần thương mại Việt Nam. Chúng ta cho phép EU nắm 49%, tuy nhiên loại trừ 4 ngân hàng Vietinbank, BIDV, Vietcombank và ngân hàng Nông nghiệp Agribank, 4 ngân hàng chúng ta đang nắm giữ cổ phần chi phối vẫn là mức 30% còn 2 ngân hàng thương mại cổ phần khác thì nhà đầu tư được quyền mua đến 49%.
- Về mua sắm công: có khác biệt lớn nhất là TPP chỉ cam kết ở cấp Trung ương nhưng với EU thì yêu cầu cao hơn chúng ta phải cam kết ở cấp địa phương. Trong trường hợp này chúng ta phải cam kết mua sắm của Thành phố Hà Nội và Hồ Chí Minh và ngoài ra chúng ta phải cam kết thêm mua sắm của Tập đoàn điện lực, của Tổng Công ty đường sắt, của Đại học quốc gia Hà Nội và Đại học quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, đây là các điểm mà cao hơn so với TPP về mua sắm công. Còn các nội dung khác thì tương tự như TPP.
- Về sở hữu trí tuệ: về cơ bản không vượt quá cam kết với TPP có 2 điểm quan trọng về dược phẩm và chỉ dẫn địa lý.
+ Về dược phẩm: ta đồng ý sớm ban hành văn bản pháp luật để thực thi cho phép các công ty có vốn đầu tư nước ngoài được quyền nhập khẩu thuốc và bán thuốc tại thị trường Việt Nam, bán cho các nhà phân phối tại Việt Nam.
+ Về chỉ dẫn địa lý: ta đồng ý bảo hộ cho 169 chỉ dẫn địa lý của EU và EU đồng ý bảo hộ 37 chỉ dẫn địa lý của Việt Nam. Đấy là về sở hữu trí tuệ.
III. CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC
1. Cơ hội:
- Về mặt chính trị: Tham gia TPP và EU sẽ khẳng định vị thế của Việt Nam, giúp tăng cường nội lực, khả năng ứng phó, giúp củng cố vị thế, đổi mới đường lối đối ngoại độc lập tự chủ. Đây là 1 nội dung hết sức quan trọng nếu nhìn xa nếu chúng ta có FTA với Hoa Kỳ, EU thì qua trao đổi với các nước ASEAN họ nhìn ta bằng con mắt khác, cái tầm của chúng ta được nâng lên, vị thế của chúng ta cũng được đảm bảo hơn.
- Về kinh tế: Tiếp tục thúc đẩy thương mại giữa Việt Nam và EU, có 1 lợi ích rất lớn có khả năng chúng ta đạt được.
+ Theo nghiên cứu của Dự án MUTRAP thực hiện thì cái FTA của Việt Nam với EU giúp xuất khẩu của Việt Nam tăng lên bình quân từ 4 đến 6% /1 năm trong vòng 10 năm kể từ khi hiệp định có hiệu lực. Hiện nay xuất khẩu của EU đang tăng bình quân từ 16 đến 18%/1 năm, FTA với EU có hiệu lực từ 2016 giúp tăng mức xuất khẩu lên 21%/ 1 năm thì như vậy năm 2020 xuất khẩu có thể tăng lên 85 tỷ đô la Mỹ tức là tăng thêm 16 tỷ đô la Mỹ trong trường hợp không có FTA. Đến 2025, xuất khẩu sẽ là 220 tỷ đô la Mỹ tăng từ 75 đến 76 tỷ đô là Mỹ trong trường hợp không có FTA. Đấy là FTA Việt Nam và EU.
Với TPP: theo tính toán sẽ giúp Việt Nam tăng thêm khoảng 23,5 tỷ đô la GDP vào năm 2020 và 33,5 tỷ đô la vào năm 2025. Xuất khẩu cũng tăng thêm khoảng 68 tỷ đô la vào năm 2025 và sau đó Việt Nam sẽ là nước hưởng lợi nhiều nhất trong số 12 nước tham gia TPP. Đấy là lợi ích về kinh tế.
+ Tiếp tục ổn định và mở rộng nhập khẩu đặc biệt là máy móc thiết bị mà chúng ta chưa sản xuất được mà chúng ta cần thiết ví dụ như dược phẩm, hoá chất
+ Nội dung quan trọng là giúp đa dạng hoá các quan hệ kinh tế, thương mại, đặc biệt giúp ta đa dạng hoá thị trường xuất nhập khẩu tránh được phụ thuộc quá mức vào 1 khu vực đây là yếu tố then chốt giúp ta nâng cao tính độc lập tự chủ của nền kinh tế. Đây là nội dung hết sức quan trọng, giúp chúng ta cân bằng lại cán cân thương mại, thậm chí giúp chúng ta có thể thặng dư thương mại trong thời gian dài.
+ Cải thiện môi trường đầu tư: góp phần thu hút vốn đầu tư chất lượng cao thì qua thông tin đại chúng các đồng chí cũng biết rất nhiều tập đoàn đã đón đầu TPP và FTA với EU rất nhiều nhà đầu tư vào Việt Nam, chúng ta thấy rất nhiều dự án đầu tư về xây dựng công nghiệp sợi, các nhà máy sản xuất sợi hay chế biến vải tại Việt Nam để đón đầu TPP. Chúng ta có cơ hội trở thành điểm trung chuyển kết nối hoạt động thương mại của các đối tác lớn tại ASEAN, tác động này chắc chắn được cộng hưởng khi cộng đồng kinh tế ASEAN được thành lập vào năm 2015 và các doanh nghiệp Việt Nam cũng có cơ hội đầu tư thuận lợi hơn tại TPP và EU. Chúng ta biết rằng là Tập đoàn Viettel hiện nay cũng đang ngày càng mở rộng có sự hiện diện của mình tại các nước trong đó có EU, Hoa Kỳ rồi Vietcombank, tập đoàn Captrol Việt Nam cũng có nhiều các điều kiện đầu tư thuận lợi của TPP và EU giúp cho các tập đoàn này sẽ mở rộng thuận lợi hơn ra thị trường quốc tế.
+ Cái nữa là thêm cơ hội tham gia vào sự cố toàn cầu. Các đồng chí cũng biết rằng trong thời gian qua rất nhiều tập đoàn lớn Microsoft, Samsung, LG đã đầu tư lớn vào Việt Nam đặc biệt là Samsung, chúng ta bây giờ trở thành cứ điểm sản xuất điện thoại di động, điện thoại thông minh lớn nhất của Samsung và kim ngạch xuất khẩu của Samsung đóng góp rất lớn vào kim ngạch xuất khẩu của đất nước và quan trọng là chúng ta trở thành 1 mắt xích quan trọng trong chuỗi sản xuất toàn cầu về điện thoại di động. LG cũng đầu tư gần 2 tỷ đô la xây dựng, đào tạo, đầu tư sản xuất các máy thông minh, máy điều hoà thông minh, Microsoft cũng chuyển toàn bộ sản xuất điện thoại Nokia sang Việt Nam.
Như vậy, có khả năng giúp nâng tầm kinh tế Việt Nam trong vòng 5 năm tới, đây là 1 điều kiện hết sức quan trọng mà chúng ta không chỉ là tập trung sản xuất các sản phẩm thô nữa mà chúng ta đi vào công nghệ tinh, công nghệ hiện đại, đấy là cái quan trọng giúp nâng tầm kinh tế Việt Nam.
+ Và tiếp theo là có cơ hội tham gia vào thị trường mua sắm công của các nước TPP và EU. Riêng Hoa Kỳ thì tính toán chỉ riêng mua sắm vật phẩm văn phòng thôi là chi phí hàng năm của chính quyền liên bang là 10 đến 12 tỷ đô la. Như vậy, các Tập đoàn Thiên Long, Thiên Đức của chúng ta hoàn toàn có thể tham gia vào các đấu thầu ấy, nếu chúng ta có chất lượng tốt, giá rẻ thì chúng ta hoàn toàn có khả năng thắng thầu ở các mảng đó.
+ Trong trung hạn thì chúng ta có lợi thế đối thủ cạnh tranh: Báo cáo các đồng chí cái áo sơ mi hiện thuế là 18% để mà có thể cắt giảm chi phí 18%/ 1 cái áo thì phải đầu tư rất lớn về công nghệ, về con người thì chúng ta mới cắt giảm được. Tuy nhiên, chúng ta có thể cắt giảm nhanh 18% nếu chúng ta tham gia TPP hay EU tạo ra lợi thế cạnh tranh rất lớn so với đối thủ Trung Quốc hay Thái Lan hay 1 số đối tác trong khu vực, đấy là 1 cái mà chúng ta cần chú ý.
+ Và quan trọng hơn nữa là chúng ta có cơ hội công nhận là nền kinh tế thị trường. Thì EU đã chính thức đồng ý là ngay khi thời điểm mà chúng ta ký kết FTA thì Việt Nam sẽ được EU công nhận là nền kinh tế thị trường. Với Hoa Kỳ thì họ cũng đã có thư ở cấp Bộ trưởng gởi cho chúng ta để đồng ý xem xét cùng bàn với Việt Nam để giúp Việt Nam đáp ứng tiêu chuẩn của Hoa Kỳ nhằm giúp Việt Nam được Hoa Kỳ công nhận là nền kinh tế thị trường, đấy cũng là nội dung quan trọng.
+ Về thể chế: đây là cơ hội để chúng ta hoàn thiện thể chế trong đó có kinh tế thị trường, hỗ trợ cho tiến trình đổi mới, mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, đối với các tiêu chuẩn cao của TPP giúp ta có điều kiện cải cách lại bộ máy nhà nước giúp hoàn thiện bộ máy nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thúc đẩy cải cách bộ máy theo hướng tinh gọn hơn, hiệu quả hơn.
+ Về mặt xã hội: tăng trưởng kinh tế giúp chúng ta tăng thêm việc làm, nâng cao thu nhập, xoá đói giảm nghèo.
2. Về mặt thách thức:
Báo cáo các đồng chí có mấy thách thức chính:
+ Về mặt kinh tế: chúng ta sẽ chịu sức cạnh tranh, nhưng không phải cạnh tranh trên tất cả các lĩnh vực, chỉ cạnh tranh trong 1 số chủng loại hàng nông sản như thịt lợn, thịt gà và 1 số sản phẩm khác cũng cạnh tranh nhưng sức cạnh tranh nhẹ hơn nhưng chúng ta đã quen với cạnh tranh rồi, ví dụ sữa chẳng hạn. Chúng ta thấy sữa của các tập đoàn như là Vinamilk, TH Truemilk, chúng ta thấy là ngày càng khẳng định vị thế trên thị trường thậm chí là thống trị thị trường mặc dù là có sữa nước ngoài vào nhưng chúng ta cũng quen dần với sức cạnh tranh rồi hay đậu tương, ngô, các thực phẩm cho gia súc.
+ Về các loại dịch vụ: mặc dù có cam kết mở rộng hơn cho ô tô nhưng ta đều giữ được quyền chủ động của nhà nước trong việc quản lý, các lĩnh vực nhạy cảm như xuất bản, phát thanh truyền hình, báo chí đều không cam kết mở cửa nước ngoài.
+ Về thể chế: các tiêu chuẩn cao về quản trị đặt ra thách thức cho bộ máy quản lý nhà nước, ngoài ra chúng ta sửa đổi ban hành các luật đã cam kết.
+ Về mặt xã hội: cạnh tranh gia tăng cũng cũng khiến cho 1 số doanh nghiệp khó khăn dẫn đến bị phá sản, tất nhiên những doanh nghiệp phá sản này cũng dẫn đến trường hợp là gì? Là lao động thất nghiệp nhưng vấn đề chúng ta cũng đã xử lý các biện pháp khác.
+ Về thu ngân sách: thì có ảnh hưởng đến thu ngân sách nhưng không lớn, lý do tỷ trọng thu ngân sách từ thuế nhập khẩu giảm dần qua các năm, ví dụ tổng thu thuế nhập khẩu của Hoa Kỳ là 170 đến 180 triệu đô la 1 năm chiếm chưa đầy 3% tổng thu từ thuế xuất nhập khẩu với lộ trình cắt giảm thuế trung bình từ 5 đến 7 năm thậm chí đến 10 năm thì tác động đến thu thuế nhập khẩu của chúng ta không lớn.
+ Về lao động công đoàn: đây là thách thức rất lớn, chúng ta làm thế nào để có cơ chế quản lý trong trường hợp 1 công đoàn cơ sở nằm ngoài hệ thống Tổng Liên đoàn Lao động xuất hiện thì những cái này thì tất cả Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam phối hợp với Bộ Lao động và Bộ Công thương, chính phủ cũng đã bàn bạc hết sức kỹ lưỡng báo cáo lãnh đạo Đảng và nhà nước các phương án, thách thức có thể xảy ra đặc biệt là các phương án để xử lý các thách thức này làm sao để đảm bảo tối đa không có các hiệu ứng tiêu cực mà có thể xảy ra trong tương lai.
IV. ĐỀ XUẤT KIẾN NGHỊ
Về đề xuất kiến nghị có 1 số nội dung cơ bản
1. Chính phủ chắc chắn sẽ chủ động xây dựng các chương trình hành động để thực thi TPP và hiệp định FTA giữa EU và Việt Nam sau khi kết thúc đàm phán, cần xác định rõ ràng các thách thức để chủ động xác định các giải pháp đối phó, ví dụ trong nông nghiệp chúng ta phải dự sẵn là thịt bò, thịt gà, thịt lợn là sẽ lĩnh vực sẽ gặp ảnh hưởng thì chắc chắn chúng ta phải có giải pháp cải cách lại, cơ cấu lại hệ thống nông nghiệp làm sao cho có hiệu quả và cạnh tranh và có các biện pháp hỗ trợ cần thiết cho các đối tượng chịu ảnh hưởng.
2. Về tuyên truyền: có 1 số ý kiến cá nhân:
- Thời gian qua chúng ta cần xác định rõ, báo rất quan trọng có định hướng chính xác đối với dư luận. Chẳng hạn như cạnh tranh: vừa rồi có chuyện thịt gà 25.000 đồng/1kg thế thì họ cho rằng bây giờ chưa có TPP mà thịt gà 25.000 đồng/1kg rồi thì khi có TPP thịt gà còn bao nhiêu?
Đây là cái chúng ta cần định hướng: Thứ nhất, chúng ta cần tìm hiểu đấy không phải là cái TPP, đấy không phải là do quan hệ thương mại gì cả, bản chất xem nếu thịt gà ấy có yếu tố bán phá giá thì chúng ta có quyền áp dụng các thuế chống bán phá giá để đưa nó về giá thông thường. Còn nếu có yếu tố hàng cận date (đát) mà bán ra thị trường với giá như vậy thì chúng ta có biện pháp vệ sinh an toàn thực phẩm. Ở đây, cơ quan chính phủ Việt Nam cần có biện pháp xử lý nhưng quan trọng báo chí cũng cần hiểu rõ cái sức ép cạnh tranh đến từ đâu, sức ép cạnh tranh khi ký TPP và FTA với Việt Nam chắc chắn là có nhưng không phải có tất cả trên các lĩnh vực. Nó chỉ có ở lĩnh vực và quan trọng nữa 2 đối tác này bổ sung cho chúng ta, nó không cạnh tranh với chúng ta ví dụ chúng ta ký FTA với Trung Quốc xong thì chúng ta phụ thuộc thị trường thương mại EU vì sao? Vì Trung Quốc cạnh tranh trực tiếp với chúng ta nhiều mặt hàng, chúng ta ký với FTA trong ASEAN thì chúng ta phụ thuộc vào Thái Lan vì Thái Lan xuất khẩu cùng mặt hàng với chúng ta nhưng Hoa Kỳ và EU xuất khẩu mặt hàng khác với chúng ta họ chỉ có 1 số mặt hàng trùng với chúng ta như thịt lợn, thịt gà tuy nhiên 2 mặt hàng này cũng có nhu cầu dùng khác nhau. Ví dụ thịt lợn đông lạnh nhưng tập quán của Việt Nam là thông thường dùng thịt lợn tươi chưa có thói quen dùng thịt lợn đông lạnh. Cho nên quan trọng là báo chí cũng cần định hướng hết sức chuẩn xác đối với tác động của 2 hiệp định này.
- Về lao động công đoàn: công đoàn không phải là tiêu chuẩn của Hoa Kỳ trong TPP đó là tiêu chuẩn của tổ chức lao đồng quốc tế đã được chúng ta là thành viên tham gia.